Trả lời:
Ô rô còn gọi là dã hồng hoa, sơn ngưu bàng, tên khoa học Circus Japonicus Maxim, thuộc họ Cúc Asteraceae. Ô rô là một loại cỏ sống lâu năm, cao 58-100 cm hay hơn, thân màu xanh, có nhiều rãnh dọc, nhiều lông. Lá ở góc dài 20-40 cm hay hơn, rộng 5-10 cm, hai lần xẻ lông chim, thành thùy, mặt trên nhẵn, mép có gai dài, lá ở thân không cuống, chia thùy. Cụm hoa hình đầu mọc ở kẽ lá hay đầu cành, đường kính chừng 3-5 cm. Cánh hoa màu tím đỏ. Quả thuôn dài 4 mm, nhẵn, hơi dẹt. Cây mọc hoang ở khắp miền Bắc và miền Trung nước ta.
Ô rô được nhân dân dùng làm thuốc từ lâu đời. Theo sách cổ, ô rô vị ngọt đắng, tính mát, chủ yếu chữa thổ huyết, máu cam, tiểu tiện ra máu, bị đánh hay ngã mà chảy máu băng đới, còn có tác dụng làm mát huyết, tiêu thũng, thông sữa. Có thể dùng cây và lá hay rễ tươi giã ép lấy nước hoặc phơi khô sắc uống.
Liều dùng hàng ngày: Cây tươi 100-180 g, cây và rễ khô 40-60 g. Có người chỉ dùng 6-12 g cây khô sắc uống phối hợp với các vị khác. Quân y viện 108 đã dùng ô rô sắc uống chữa phù thận có kết quả rất tốt.
GS Đỗ Tất Lợi, Sức Khỏe & Đời Sống