"Siêu lây nhiễm" được định nghĩa một cách không chính thức là những người lây nhiễm cho quá nhiều người khác, có thể là do đặc điểm di truyền, thói quen xã hội hoặc đơn giản là có mặt sai vị trí và thời điểm.
Những người mang virus có khả năng lây truyền cao như vậy chính là tâm điểm của cái gọi là sự kiện "siêu lây nhiễm", nơi có thể biến thành các ổ dịch, theo giới nghiên cứu. Những người này cũng trở thành nhân tố quan trọng để tìm cách xác định các sự kiện siêu lây nhiễm hoặc để ngăn những tình huống như vậy xảy ra.
Ngược lại, việc xác định những người bị lây virus nhưng khó có khả năng lây nhiễm cho người khác cũng quan trọng không kém.
Việc phân biệt giữa nhóm người có nguy cơ lây nhiễm cao và thấp có thể tạo ra sự khác biệt lớn về việc kiểm soát một ổ dịch nhanh và dễ dàng ra sao, theo Jon Zelner, nhà dịch tễ học tại Đại học Michigan. Nếu người mang virus là siêu lây nhiễm, việc theo dõi lịch sử tiếp xúc của người này là điều cực kỳ quan trọng. Nhưng ngược lại, vì một lý do nào đó mà người này không làm lây virus cho người khác, việc theo dõi lịch sử tiếp xúc là phí công.
"Phần khó khăn là chúng tôi không biết họ là ai", Zelner nói.
Martina Morris, giáo sư danh dự về thống kê và xã hội học tại Đại học Washington, nhận định có hai yếu tố trong vấn đề này. "Để có thể truyền bệnh, cần có mối liên kết giữa những người nhiễm bệnh", cô nói nhưng thêm rằng yếu tố này đúng nhưng chưa đủ. Theo Morris, yếu tố thứ hai đóng vai trò quan trọng không kém là mức độ lây nhiễm của một người.
"Chúng tôi gần như chưa bao giờ có những dữ liệu độc lập về hai yếu tố đó", cô chia sẻ.
Morris chỉ ra rằng rất dễ để quy kết nhầm trách nhiệm cho một cá nhân là "siêu lây nhiễm" và khiến người đó trở thành đối tượng bị dư luận tấn công, trong khi họ không liên quan tới sự lây lan đó.
"Nếu bạn là người đầu tiên trong một căn phòng đông đúc bị nhiễm virus và đó là một căn bệnh dễ lây, bạn sẽ bị gán mác 'siêu lây nhiễm'. Bất kỳ ai trong căn phòng đó cũng đều có thể là người siêu lây nhiễm. Bạn chỉ là người đầu tiên bị phát hiện", Morris cho biết.
Tuy nhiên, có những tình huống mà một vài cá nhân là nguyên nhân gây ra những đợt bùng phát dịch lớn. Với Covid-19, hiện vẫn chưa rõ liệu những "mầm bệnh thầm lặng", hay người không biết mình mang virus, có nằm trong nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao hay không, theo tiến sĩ Thomas Frieden, cựu giám đốc Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) và giám đốc điều hành sáng kiến Resolve to Save Lives của tổ chức Vital Strategies. Ông thêm rằng nhiều khả năng những sự kiện siêu lây nhiễm có thể liên quan tới những người có triệu chứng dai dẳng nhưng chưa ốm tới mức phải ở nhà cách ly.
Họ cũng có thể liên quan tới những người phát tán một lượng virus nhiều bất thường, một yếu tố không chắc chắn rằng nó có thể là do lượng virus khác nhau trong giọt nước bắn ra khi người bệnh ho hay trong chất thải của họ.
Tiến sĩ Frieden nhận định dù nguyên nhân là gì, các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng, như tránh tụ tập và cái mà ông gọi là "quy tắc lịch sự khi ho" có thể giúp ngăn chặn một sự kiện siêu lây nhiễm.
Lịch sử y khoa từng ghi nhận nhiều câu chuyện về siêu lây nhiễm trong các đợt bùng phát dịch lao, sởi và nhiều bệnh khác. Một trong những ví dụ về người siêu lây nhiễm là nữ đầu bếp Mary Mallon, hay còn được gọi là "Mary Thương hàn", vì đã lây bệnh thương hàn cho hơn 50 người ở Mỹ trong những năm đầu thế kỷ 20. Bản thân bà không bị ốm và không xuất hiện triệu chứng, nhưng đã trở thành người âm thầm lây lan bệnh.
Các sự kiện siêu lây nhiễm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bùng phát hai đợt dịch khác là SARS và MERS.
"Trong đợt dịch MERS bùng phát ở Hàn Quốc, gần 75% số ca nhiễm đều có mối liên quan tới ba người mang virus, với mức độ lây nhiễm khác nhau", George F. Gao, nhà miễn dịch học và virus học tại Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh Trung Quốc ở Bắc Kinh, viết trong một bài đăng gần đây.
MERS bùng phát ở Hàn Quốc năm 2015 khi một người đàn ông 68 tuổi bị nhiễm virus sau chuyến đi tới Trung Đông. Ông này trở về Hàn Quốc và nhiễm bệnh cho 29 người, hai trong số này tiếp tục lây nhiễm cho 106 người khác, trong khi tổng số ca nhiễm MERS ở quốc gia này vào thời điểm đó là 166.
Khi dịch SARS bùng phát năm 2003, người nhiễm đầu tiên ở Hong Kong đã lây cho ít nhất 125 người khác. Một số sự kiện siêu lây nhiễm khác có liên quan tới 180 người trong một khu chung cư ở Hong Kong và 22 người khác trên một chuyến bay từ Hong Kong tới Bắc Kinh.
Trong đợt dịch Ebola bùng phát ở châu Phi giai đoạn 2014-2016, 61% số ca nhiễm có liên quan tới 3% người mang virus.
Các sự kiện siêu lây nhiễm cũng dẫn đến sự bùng phát của nhiều ổ dịch Covid-19. Một sự kiện xảy ra cuối tháng 2 khi 175 nhân viên công ty công nghệ sinh học Biogen tham gia hội nghị ở khách sạn Marriott Long Wharf ở Boston. Ít nhất một người trong số họ đã nhiễm nCoV. Hai tuần sau, 75% trong số 108 cư dân Massachusetts nhiễm nCoV có liên quan tới Biogen. Covid-19 tiếp tục lan rộng từ đó tới nhiều bang khác và nhiều cư dân khác ở Massachusetts.
"Tại sao là hội nghị đó? Tại thời điểm đó có nhiều hội nghị diễn ra bởi khi đó chưa có hướng dẫn về cách biệt cộng đồng. Có điều gì đó đã xảy ra với sự kiện này", tiến sĩ Eric Topol, giám đốc viện nghiên cứu dịch thuật Scripps ở San Diego, nói.
Sau đó là bữa tiệc sinh nhật ngày 12/3 ở Westport, bang Connecticut với khoảng 50 người tham dự và nửa số đó nhiễm nCoV. Tốc độ lây lan của ổ dịch này nhanh tới mức giới chức y tế phải từ bỏ việc truy tìm lịch sử tiếp xúc.
Tại một đám tang ngày 29/2 ở Albany, bang Georgia, một người nào đó trong 200 người tới viếng đã vô tình làm lây lan nCoV. Tại điểm nóng Covid-19 tại nhà tù hạt Cook, bang Illinois, ít nhất 400 người đã bị nhiễm.
Nhưng ngược lại, có những người nhiễm bệnh dường như không lây virus cho người khác. Trong đợt bùng phát dịch MERS ở Hàn Quốc, 89% người nhiễm không làm lây lan bệnh.
Còn đối với đại dịch Covid-19, cặp vợ chồng ở Illinois là ví dụ điển hình của việc không lây lan virus. Ngày 23/1, người vợ trở về từ Vũ Hán trở thành ca nhiễm nCoV đầu tiên được xác nhận ở bang này. Ngày 30/1, chồng cô bị nhiễm và trở thành ca lây nhiễm từ người qua người đầu tiên ở Mỹ. Cả hai đều bị bệnh nặng và phải nhập viện điều trị, nhưng đã bình phục và xuất viện sau đó. Giới chức y tế bang đã truy vết và phát hiện 372 người, trong đó có 195 nhân viên y tế, từng tiếp xúc với họ, nhưng không ai trong số này bị nhiễm.
Tiến sĩ Jennifer Layden, giám đốc Cơ quan Y tế cộng đồng Chicago, cho biết trường hợp không lây lan này làm nổi lên một số câu hỏi. Cặp vợ chồng bị nhiễm nCoV này đã tiếp xúc với những người kia ở đâu? Họ có hắt hơi và ho không? Mức độ tiếp xúc gần ra sao? Liệu có phải những người từng tiếp xúc với họ đơn giản là có khả năng ít bị nhiễm bệnh?
Zelner cho rằng giới chức y tế có thể "rơi vào bẫy" khi mải miết tìm kiếm những ca siêu lây nhiễm. Ông cho rằng, khi giới chức chỉ chạy đi tìm kiếm người bị gán trách nhiệm làm bùng phát ổ dịch, họ đã bỏ sót nhiều nguồn lây nhiễm bệnh khác. Zelner cũng tin rằng có những hậu quả không nhỏ về mặt xã hội xoay quanh những câu chuyện về người siêu lây nhiễm.
"Bản chất của xã hội hiện nay là chúng ta đặc biệt quan tâm tới thảm họa. Và một cái gì đó như câu chuyện về xác sống chính là cách tốt nhất để làm điều đó. Đó là câu chuyện có tầm ảnh hưởng rất lớn", Samuel K. Roberts, nhà lịch sử y khoa ở Columbia, cho hay.
Ông cho rằng công chúng không cần phải biết về người siêu lây nhiễm hay bệnh nhân số 0. "Điều quan trọng hơn là chúng ta phải bảo vệ mình như thế nào? Tìm kiếm bệnh nhân số 0 không giúp ích được gì cả. Nó chỉ gieo rắc nỗi sợ hãi cho những người khác", Roberts khẳng định.
Thanh Tâm (Theo NYTimes)