Trả lời:
Biểu hiện ban đầu của bệnh bạch hầu thường dễ nhầm lẫn với các bệnh đường hô hấp như viêm họng, viêm amidan hoặc viêm họng do nhiễm nấm candida. Bạn có thể dựa trên một số điểm khác biệt sau đây để phát hiện sớm và đến cơ sở y tế để được chẩn đoán, điều trị kịp thời.
Phân biệt với viêm họng:
Bạch hầu là bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc nên khiến người bệnh xanh tái, mệt mỏi hơn so với các tác nhân đường hô hấp thông thường. Thời gian ủ bệnh có thể sốt nhẹ, đau họng, sổ mũi lẫn máu.
Viêm họng, viêm amidan thường chỉ khu trú ở vùng họng, ít khi xâm lấn đến các bộ phận khác. Ngược lại, vi khuẩn bạch hầu tạo ra giả mạc ở họng. Chúng có thể phát triển, lan xuống thanh quản gây ra triệu chứng ho nhiều, khàn tiếng, thở rít.
Cả ba bệnh đều có khả năng gây sưng họng, song bạch hầu có nguy cơ cao hơn và thường gây sưng to hơn, trường hợp nặng gây ra hiện tượng cổ bạch.
Phân biệt với nhiễm nấm:
Mới đây, Lào Cai cũng ghi nhận một ca mắc nấm candida có biểu hiện tương tự bạch hầu. Candida là một loài nấm men, lây từ mẹ sang con hoặc tiếp xúc với dịch tiết âm đạo, mồ hôi, tế bào bong ra từ người bệnh; sử dụng thực phẩm và uống nước nhiễm nấm. Mầm bệnh ký sinh trên da và niêm mạc, thường biểu hiện ở dạng nấm da, viêm âm hộ, âm đạo... Như trường hợp ghi nhận ở Lào Cai, nấm phát triển ở vùng họng nhìn như lớp giả mạc của bạch hầu.
Để phân biệt, nấm Candida có màu trắng, giả mạc có thể gây chảy máu hoặc không. Trong một số trường hợp, phần trắng của nấm không bám chặt vào mô bên dưới, dễ dàng lau hoặc chải sạch.
Trong khi đó, giả mạc của bạch hầu thường có màu trắng ngà, trắng xám, không tan trong nước. Lớp giả mạc của bạch hầu có thể gây chảy máu và mọc lại nhanh chóng.
Với bạch hầu, nếu không được điều trị kịp thời, giả mạc có thể phát triển, lan rộng hoặc phồng to, gây ngạt thở, thậm chí tử vong nhanh chóng.
Khi có biểu hiện nghi ngờ, người dân cần đến ngay cơ sở y tế để được hướng dẫn theo dõi và điều trị, lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm tác nhân gây bệnh nếu cần thiết.
Để phòng bạch hầu, người dân cần kết hợp nhiều biện pháp như: tiêm vaccine đầy đủ, giữ vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, súc họng bằng nước muối sinh lý, không tiếp xúc với người bệnh, nghi nhiễm, giữ khoảng cách khi đến nơi đông người, đeo khẩu trang.
Vaccine có thành phần ngừa bạch hầu có lịch tiêm bốn mũi cơ bản trước 2 tuổi, tiêm nhắc vào các mốc 4-6 tuổi, 9-15 tuổi và 10 năm/lần đối với người lớn. Phụ nữ mang thai cần bổ sung một mũi vào ba tháng giữa hoặc ba tháng cuối thai kỳ. Người không rõ lịch sử tiêm ngừa, cần bổ sung sớm mũi bạch hầu, ho gà, uốn ván, phác đồ ba mũi trong 7 tháng hoặc đến các trung tâm tiêm chủng để được bác sĩ thăm khám và ra chỉ định tiêm ngừa phù hợp.
Bác sĩ Nguyễn Văn Quảng
Quản lý Y khoa, Hệ thống tiêm chủng VNVC