Ung thư đại - trực tràng là một trong những loại ung thư thường gặp, dễ dẫn đến tử vong, kết quả điều trị xấu và tốn kém khi bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn muộn hoặc đã có di căn. Bệnh có thể phòng tránh được thông qua thói quen ăn uống lành mạnh. Việc xác định các yếu tố nguy cơ là rất quan trọng để từ đó có biện pháp phòng ngừa tích cực.
Tiến sĩ Bùi Chí Viết, Trưởng khoa Ngoại 2, Bệnh viện Ung bướu TP HCM cho biết, nếu loại trừ yếu tố nguy cơ có tính di truyền, phần lớn ung thư đại - trực tràng do nguyên nhân từ thói quen sinh hoạt và cách ăn uống.
Có nhiều yếu tố nguy cơ mà mọi người có thể phòng tránh được như:
- Các loại thịt đỏ (thịt bò, thịt cừu) được xem là có liên quan mật thiết đến ung thư đại - trực tràng. Ăn khoảng 160g/ngày hoặc chế độ ăn với thịt quá 5 lần/tuần có nguy cơ cao gấp 3 lần. Dưới hình thức chiên, nướng, thịt xông khói, dăm bông, xúc xích, chất đạm sẽ làm tăng yếu tố sinh ung, còn mỡ sẽ bị chuyển hóa bởi vi khuẩn trong lòng ruột, làm tăng sản các tế bào biểu mô bất thường và phát triển thành ung thư.
- Ăn nhiều thịt, mỡ, đạm, ít chất xơ dễ dẫn đến béo phì và có nguy cơ cao gây ung thư đại - trực tràng. Các thức ăn chứa nhiều chất xơ (rau xanh, trái cây) giúp làm giảm nguy cơ này vì chất xơ giúp gia tăng tiêu thụ acid folic, gia tăng kết hợp chất xơ với các yếu tố sinh ung thư dẫn đến việc loại khỏi lòng ruột sớm vì giảm thời gian ứ đọng phân. Ngoài ra, chất xơ làm giảm pH trong lòng đại tràng và tăng sản xuất các acid béo chuỗi ngắn và yếu tố vi lượng chống hiện tượng oxy hóa.
- Các loại nước uống chứa cồn làm tăng nguy cơ ung thư đại - trực tràng nếu sử dụng trên 15 g một ngày.
- Thuốc lá được biết đến như là những “sát thủ” của bệnh lý tim mạch hay ung thư phổi. Gần đây nó được công nhận là những yếu tố nguy cơ rất quan trọng gây ung thư đại - trực tràng cho cả hai giới, nhất là khi kết hợp với rượu bia.
- Béo phì cũng làm tăng nguy cơ ung thư đại - trực tràng cho cả nam giới cũng như nữ giới, nhưng rõ nét hơn ở nam giới. Ở nam giới có chỉ số BMI cao sẽ có nguy cơ gấp 2 lần, trong khi ở phụ nữ béo phì thì nguy cơ này cao hơn 1,5 lần.
Hoạt động thể lực, vận động hay luyện tập thể dục sẽ làm giảm nguy cơ mắc ung thư đại - trực tràng, trên cơ sở ngăn ngừa béo phì và cũng làm giảm thời gian ứ đọng trong lòng đại tràng.
- Tuy nhiên cũng có yếu tố không thể kiểm soát được như tuổi tác. Hơn một nửa bệnh ung thư xảy ra ở những người lớn tuổi. Hiện nay, tuổi thọ ngày càng tăng, do vậy chúng ta luôn luôn đối mặt với những yếu tố nguy cơ ung thư đại - trực tràng.
Triệu chứng báo hiệu phát hiện sớm ung thư đại tràng
Những triệu chứng thường gặp là xuất huyết tiêu hóa dưới, thay đổi thói quen đường ruột, đau bụng, sụt cân, chán ăn, mệt mỏi và đặc biệt là tắc ruột.
Tùy theo vị trí của khối bướu xảy ra ở phần nào của đại trực tràng mà có những triệu chứng riêng. Nếu ở đại tràng bên phải thì bệnh nhân thường có triệu chứng tiêu chảy, kèm theo táo bón. Nếu ở bên trái thì tắc ruột là triệu chứng nổi bật.
Riêng ung thư trực tràng, tiêu ra máu tươi và mót rặn là hai triệu chứng nổi bật. Ung thư ở vị trí này rất dễ chẩn đoán, nhưng không ít bệnh nhân đến điều trị khi bệnh đã ở giai đoạn trễ. Lý do phổ biến là bệnh nhân nghĩ mình bị trĩ hay kiết lỵ. Không ít thầy thuốc đôi khi cũng bỏ qua việc thăm khám, từ đó dẫn đến sai lầm là điều trị bệnh trĩ, bỏ mất cơ hội điều trị khỏi bệnh.
Tầm soát ung thư đại tràng bằng cách nào?
Tại nước ta, ung thư đại - trực tràng đứng hàng thứ 4 ở cả hai giới. Tuy nhiên tỷ lệ tử vong vì bệnh đã giảm dần từ thập niên 1980. Điều này là nhờ những tiến bộ của các phương tiện tầm soát, chẩn đoán, phát hiện sớm những polyp ở đại - trực tràng và được cắt bỏ trước khi chuyển thành ung thư. Cũng từ những phương tiện này mà các thầy thuốc cũng chẩn đoán được bệnh ở giai đoạn sớm hơn góp phần điều trị khỏi bệnh, mang lại những kết quả vô cùng ngoạn mục, cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh một cách rõ rệt.
Ngoài ra, béo phì và thuốc lá kết hợp cũng thuộc nhóm nguy cơ cao. Các nhà nghiên cứu đưa ra các yếu tố để đánh giá nguy cơ ung thư đại - trực tràng như: tuổi, giới, chỉ số BMI, tiêu thụ rau tươi, thịt đỏ, uống rượu, tình trạng vận động cơ thể, có sử dụng vitamin và các yếu tố vi lượng. Qua đó, sẽ tính điểm cho từng yếu tố nguy cơ.
Các phương tiện tầm soát ung thư đại - trực tràng thường được bắt đầu bằng những phương tiện giản đơn, ít xâm lấn đến các phương pháp chuyên sâu hơn như tìm máu ẩn trong phân, nội soi đại tràng “sigma”, soi toàn bộ đại tràng, chụp đại tràng đối quan kép, đang được áp dụng với chi phí vừa phải nhưng đạt được hiệu quả cao.
Việc xét nghiệm mẫu phân cho thấy có cải thiện được tiên lượng bệnh nhờ phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm và có thể điều trị khỏi. Xét nghiệm nội soi và chụp x-quang đại tràng cho thấy rõ vị trí tổn thương hoặc những polyp và được cắt bỏ qua nội soi trước khi chúng chuyển thành ung thư thực sự. Hiện nay, đã có những phương pháp mới như xét nghiệm ADN phân, nội soi ảo khung đại tràng nhờ phần mềm xử lý để tái tạo lại toàn bộ hình ảnh của lòng đại tràng dựa trên các lát cắt qua chụp cắt lớp, hay nội soi khung đại tràng bằng viên camera.
Lưu ý để phòng ngừa ung thư đại tràng
- Không dùng quá nhiều thịt, chất béo có nguồn gốc từ đạm động vật.
- Bổ sung thật đầy đủ chất xơ từ lúa mạch, trái cây, rau tươi… Những chất này làm loãng chất sinh ung thư trong phân, làm giảm thời gian ứ đọng phân trong lòng ruột, đồng thời sinh ra những vi khuẩn có lợi cho đường ruột.
- Bổ sung thêm các vitamin E, C, và A. Uống thêm canxi.
- Có chế độ sinh hoạt năng động, luyện tập thể dục. Một nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân ung thư ruột ở giai đoạn III đã mổ, luyện tập aerobic thường xuyên góp phần làm giảm nguy cơ tái phát.
Lê Phương