-
9h30
Phiên chất vấn Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng kết thúc với 29 đại biểu tham gia chất vấn. 9 đại biểu đăng ký tranh luận nhưng có 2 người do hết giờ, câu hỏi được chuyển cho Ban thư ký.
Tham gia giải trình thêm có Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị Chính phủ, Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư và các trưởng ngành có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến góp ý của đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt các giải pháp đã chỉ ra, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tập trung vào bốn vấn đề chính.
Một là ngay trong năm 2021 cần chủ trì phối hợp với Bộ ngành có liên quan, cơ quan của Quốc hội giúp cho Chính phủ xây dựng, ban hành và triển khai chương trình tổng thể phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch, gắn với nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế, gắn với khung khổ đầu tư công trung hạn, kế hoạch tài chính ngân sách, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và tái cơ cấu nền kinh tế.
Việc thiết kế chương trình phục hồi kinh tế sau đại dịch, qua thảo luận nổi lên các yêu cầu, gắn với việc xây dựng gói kích thích kinh tế bằng tài khóa và tiền tệ.
Hai là ông yêu cầu không để trình trạng chậm giải ngân vốn đầu tư công và công trình quan trọng quốc gia kéo dài mãi. Bộ Kế hoạch & Đầu tư cần tham mưu Chính phủ phân tích đánh giá kỹ lưỡng thực trạng, xác định nguyên nhân khách quan và chủ quan, trách nhiệm tổ chức cá nhân có liên quan và trách nhiệm người đứng đầu để quyết liệt trong việc chuẩn bị đầu tư, phân bổ vốn, giải ngân kế toán và quyết toán vốn đầu tư. Trong chương trình công tác năm nay, Ủy ban Tài chính Ngân sách được giao nhiệm vụ có phiên điều trần, giải trình của các cơ quan liên quan về vấn đề này.
Ba là về một số thể chế và chính sách, đại biểu Quốc hội nhấn mạnh Bộ cần tham mưu cho Chính phủ khẩn trương, quyết liệt triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh để phê duyệt theo quy định của Luật Quy hoạch. Điều này phải đi trước một bước. Bộ cam kết chậm nhất là 31/12/2012, lưu ý quy hoạch đồng bằng sông Cửu Long trước 31/12/2021.
Bốn là chuẩn bị các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia thời gian tới cần chuẩn bị kỹ lưỡng theo đúng quy trình, có ý kiến của cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
-
9h10
Trung ương có thể hỗ trợ một phần làm tuyến vành đai 3, 4 của TP HCM
Trả lời ý kiến của đại biểu Trần Hữu Hậu (Tây Ninh) về việc phát triển các tuyến cao tốc vành đai 3, 4 của TP HCM, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, hai dự án này đã có trong quy hoạch và theo ông, đây là hai tuyến "rất quan tọng". Bởi, việc phát triển hai dự án này không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, mở rộng không gian phát triển cho TP HCM mà còn mở ra không gian cho cả vùng Đông, Tây Nam Bộ. "Chúng tôi ủng hộ việc đầu tư sớm", Bộ trưởng nhận xét nhưng cũng cho biết thêm, nguồn lực phải tính toán cẩn thận, cân nhắc tính khả thi.
Về phía Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông cho biết ủng hộ hướng xử lý nếu các địa phương có khó khăn, trung ương có thể tham gia hỗ trợ một phần, có thể là phát hành trái phiếu hoặc cho vay lại để có thể thực hiện ngay tuyến đường này.
-
9h00
Cần lập quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long trong tình trạng khẩn cấp
Giải thích về gói đầu tư 2 tỷ USD cho đồng bằng sông Cửu Long, Bộ trưởng Tài chính cho biết khoản này do Ngân hàng thế giới cam kết với Chính phủ Việt Nam. Lãnh đạo Chính phủ sẽ đầu tư vào đồng bằng Sông Cửu Long. Số tiền này không phải ngân sách vay để thực hiện bù bội chi ngân sách mà cho vay để đầu tư dự án.
Muốn đầu tư dự án thì phải có quy hoạch được phê duyệt. Khi đó, mới lập được dự án, mới tiếp cận được khoản vay, từ đó mới ký được hiệp định.
"Bây giờ phải lập dự án trong tình trạng khẩn cấp, báo cáo cấp có thẩm quyền, khi đó sẽ giải ngân được sớm", ông Phớc nói.
-
8h55
Bộ trưởng Tài chính: Giải ngân thấp có nguyên nhân từ thể chế
Giải thích về giải ngân đầu tư công thấp, Bộ trưởng Tài chính cho rằng có nhiều nguyên nhân, "nhưng cũng có nguyên nhân từ thể chế".
Cụ thể, nghị định 59 quy định các công trình loại A thì các bộ ngành chuyên ngành phê duyệt, nên các tỉnh phải đưa hồ sơ lên Bộ ngành để phê duyệt thiết kế cơ sở. Việc này cũng chậm nên khó khăn. Cạnh đó, giải phóng mặt bằng, lập dự án để xác định nguồn vốn cũng khó khăn, trong khi phân bổ vốn thì chậm.
-
8h45
Bộ trưởng Tài chính: 'Gói kích cầu phải giúp tăng thu ngân sách, giữ bội chi'
Tham gia giải trình, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, các công cụ để thực hiện chính sách tài khóa cơ bản là thuế, thu ngân sách, nợ và chi ngân sách, kết hợp chính sách tài khóa với tiền tệ.
Về thu ngân sách, Bộ tiếp tục đề nghị Chính phủ, Quốc hội thực hiện chính sách thuế như năm 2021. Ví dụ giãn, hoãn thuế như năm 2021 (giãn hoãn đến 31/12 khoảng 115.000 tỷ đồng); giảm 30 loại phí; giảm giá xăng dầu, thuế của hàng không 50% (trước đây giảm 30%); miễn, giảm 30% thuế VAT, 30% thuế thu nhập doanh nghiệp, 50% thuế của hộ sản xuất kinh doanh, miễn phạt tiền chậm nộp...
Bộ sẽ tập trung thu trên nền tảng số và sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hóa đơn giả, hoàn thuế trục lợi, trốn thuế... và khoản thu trong chuyển nhượng bất động sản, chống chuyển giá, trốn thuế.
Nếu tính GDP cũ, năm 2021 nợ công 56,8%, vượt ngưỡng cảnh báo 55%, đây là vấn đề cần cân nhắc. Dư nợ Chính phủ 51,5% theo GDP cũ, 40,5% theo GDP đánh giá lại; nợ công 3,75 triệu tỷ, nợ Chính phủ 3,397 triệu tỷ.
"Chúng tôi ủng hộ các gói kích cầu để phát triển kinh tế, nhưng các gói này phải có hiệu quả để tăng thu ngân sách, giữ được bội chi ngân sách. Tăng bội chi ngân sách 2022, 2023 nhưng giảm các năm tiếp theo và làm nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững", ông Phớc nói.
Về thực hiện các gói kích cầu, theo ông Phớc, nếu bỏ ra mỗi năm 20.000 tỷ, hai năm 2022-2023 là 40.000 tỷ, thì với lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp khoảng 4% thì huy động được khoảng 1 triệu tỷ bỏ vào nền kinh tế. Khoản này không làm tăng bội chi ngân sách, cũng không làm tăng nợ công vì nguồn này được lấy trong nguồn đầu tư chưa phân bổ 2021-2025.
Bộ Tài chính tính toán một số gói như phát hành trái phiếu Chính phủ, công trái bằng ngoại tệ để huy động tiền trong dân, dự tính huy động khoảng 180.000 tỷ đồng. Như vậy mỗi năm tăng bội chi ngân sách 1%.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng băn khoăn khi có tiền rồi, nền kinh tế có hấp thụ được không và vào lĩnh vực nào. Ông cho rằng, tiền phải đổ vào các dự án đầu tư công để dẫn dắt đầu tư, tạo nên đột phá lớn để tăng trưởng. "Phải lập dự án trong điều kiện đặc biệt thì mới tiêu được tiền ở các gói kích cầu", ông nói.
Cùng với đó, chính sách tài khóa và tiền tệ được thực hiện đồng bộ, như vay giải quyết việc làm, làm nhà ở xã hội, các vấn đề mang tính chất hỗ trợ thì tập trung vào ngân hàng chính sách xã hội. Nhưng vay để các doanh nghiệp tập trung phát triển thì thông qua kênh của ngân hàng thương mại, huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
Về công cụ chi ngân sách, ông cho biết, tiết kiệm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển phải có hiệu quả, nếu không sẽ sắp xếp lại, lấy dự án để đưa vào dự án khác hiệu quả hơn. Trong dự toán phân bổ ngân sách dự toán phân bổ cho các tỉnh, bộ ngành, Bộ Tài chính đã cắt giảm 10% so với định mức Thường vụ Quốc hội ban hành, trong quá trình điều hành tiếp tục cắt giảm khoảng 10% nữa. Tiết kiệm 50% chi tiếp khách, công tác phí trong nước và ngoài nước. Như vậy sẽ tiết kiệm một số khoản chi để tập trung đầu tư và chống dịch.
-
8h35
Thống đốc: Rủi ro lạm phát năm 2022 rất lớn
Trao đổi thêm về các câu hỏi của đại biểu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nói, chính sách tiền tệ phải thực hiện hai nhiệm vụ chính, là điều hành để góp phần kiểm soát lạm phát, vĩ mô và đảm bảo an toàn, khả năng chi trả của hệ thống. "Việc xem xét các công cụ chính sách trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ trên hai mục tiêu này, đồng thời đảm bảo cân đối lớn của vĩ mô", bà Hồng nói thêm.
Với dư địa chính sách, Thống đốc cho rằng, năm 2021, chỉ tiêu đạt lạm phát dưới 4% có thể đạt được nhưng năm 2022, rủi ro lạm phát có áp lực rất lớn. Khi nền kinh tế thế giới đã và dần phục hồi, giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng, một số mặt hàng như xăng dầu đã tăng rất cao, nhiều nước phát triển đã ghi nhận mức lạm phát cao nhất lịch sử. Với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu rất lớn.
Các Ngân hàng trung ương trên thế giới hiện cũng giảm dần nới lỏng chính sách, theo tính toán của bà, đã có 65 lượt tăng lãi suất, tạo áp lực điều hành cho Việt Nam thời gian tới.
Đồng thời, nếu nhìn từ nhiệm vụ thứ hai của chính sách, nợ xấu của các tổ chức tín dụng cũng đang gia tăng. Các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực chứ không phải từ ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng các tổ chức cũng phải dùng nguồn lực để xử lý.
"Nếu nguồn lực của tổ chức tín dụng suy giảm sẽ ảnh hưởng tới hoạt động, tính an toàn của hệ thống", bà Hồng nói.
Bài học từ cuộc khủng hoảng 2008-2009 theo bà vẫn còn, nếu tính toán không cẩn thận, rủi ro lạm phát có thể quay trở lại.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo cố gắng tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất nhưng phải đảm bảo mức độ an toàn của từng tổ chức tín dụng và hệ thống. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất hợp lý, trên cơ sở ổn định vĩ mô, phòng ngừa rủi ro lạm phát.
Đánh giá về việc thực hiện chính sách từ đầu năm 2020, Thống đốc cho biết, đại dịch đã tác động nghiêm trọng tới sản xuất kinh doanh, và Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua đã tích cực thực hiện chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. Ngay từ đầu năm 2020, trong điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã ba lần giảm lãi suất, từ 1,5-2%. "Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực", bà Hồng nói.
Ngoài việc điều hành lãi suất, cơ quan điều hành cũng chỉ đạo, kêu gọi các tổ chức tín dụng giảm cả với các khoản vay cũ. Mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm 1,66% so với trước dịch, với tổng mức giảm lãi suất khoảng 30.000 tỷ đồng. Ngân hàng cũng giảm phí hơn 2.000 tỷ đồng cho khách hàng. Bằng việc này đã giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và người dân.
-
8h30
Chưa chốt nới bao nhiêu trần nợ công để phục hồi kinh tế
Việc chấp nhận vượt trần ngân sách, tăng nợ công để có gói cứu trợ đủ lớn hay không được đại biểu Nguyễn Văn Hiển nêu tại phiên chất vấn chiều qua và sáng nay, ông tiếp tục tranh luận lại với Bộ trưởng.
Ông nói, khi nghiên cứu báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ, ông không thấy thể hiện rõ kế hoạch tổng thể, tổng mức chi cho các gói hỗ trợ về tài khóa và tiền tệ để phục hồi kinh tế. "Cần có kế hoạch tổng thể, thống kê, tổng hợp, dự báo các gói hỗ trợ từ ngân sách bao gồm cả tài khóa, tiền tệ, nguồn lực khác, trong đó có dự tính nguồn lực của toàn xã hội", ông nói và nhấn mạnh đây là cơ sở khoa học quan trọng để xây dựng kế hoạch tổng thể, xác định đầy đủ nguồn lực làm cơ sở hoạch định và điều hành kinh tế vĩ mô.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, việc không nới trần nợ công và nới trần bội chi chắc chắn sẽ không có nguồn lực phục hồi và phát triển. Nhưng nếu nới cao quá, kiểm soát không được, hiệu quả không đảm bảo thì dẫn đến hệ lụy lâu dài cho nền kinh tế, mất ổn định kinh tế vĩ mô, mất cân đối lớn thì còn nguy hiểm hơn.
"Vậy nới thì nới bao nhiêu. 1% hay 2%? Nới ra rồi huy động bằng cách nào? Huy động được rồi thì sử dụng vào đâu để hiệu quả", ông Dũng nói.
Theo ông, Bộ Kế hoạch Đầu tư đã xây dựng kịch bản rồi nhưng "xin phép chưa báo cáo dịp này" mà cần tính toán thận trọng, kỹ lưỡng, báo cáo cấp có thẩm quyền trước khi báo cáo với Quốc hội. Tất cả vấn đề này đang được các Bộ ngành tính toán.
-
8h20
Chính sách hiện chưa ưu tiên doanh nghiệp yếu
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, khó khăn hiện nay của doanh nghiệp tập trung chính vào vấn đề tổng cầu, khi sản lượng, doanh thu giảm mạnh. Tiếp đến là doanh nghiệp khó khăn dòng tiền, không có sản xuất thì không có nguồn thu; khó khăn về chi phí đầu vào đang tăng rất cao; khó khăn về vấn đề lao động. Sau khi có Nghị quyết 105, 128 của Chính phủ, tinh thần doanh nghiệp, theo ông, đã tương đối tích cực hơn, các doanh nghiệp đã mở cửa tái sản xuất.
"Tại các khu công nghiệp phía nam, 92-96% doanh nghiệp đã khôi phục sản xuất, 70-75% lao động trở lại. Dự kiến đến quý I năm sau, 100% doanh nghiệp sẽ khôi phục hoạt động hoàn toàn", Bộ trưởng Dũng thông tin.
Tuy nhiên, với vấn đề hỗ trợ, Bộ trưởng cũng thừa nhận, thời gian qua chính sách mới tập trung hỗ trợ vào các doanh nghiệp khỏe, những doanh nghiệp vẫn còn tạo ra doanh thu và lợi nhuận, thông qua các chương trình giảm thuế, hoãn thuế. "Những doanh nghiệp yếu đúng là chưa được quan tâm hỗ trợ", Bộ trưởng cho biết. Các chính sách cho nhóm này vẫn dừng ở các gói hỗ trợ chung, tổng thể. Theo đó, ông Dũng cho rằng cần thiết phải có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn trong thời gian tới.
-
8h10
Đang tính toán công cụ chính sách cho chương trình phục hồi kinh tế
Với câu hỏi của đại biểu Nguyễn Cao Sơn (Hòa Bình), Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bộ đã xây dựng hai kịch bản cho kinh tế, có hoặc không có chương trình phục hồi, từ đó xác định các tỷ lệ về mức nợ công, bội chi, lạm phát cho từng kịch bản.
Bộ đang cùng Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để tính toán sử dụng các công cụ chính sách tài khóa, tiền tệ thế nào cho phù hợp, dựa trên đánh giá khả năng hấp thụ kinh tế và thu xếp nguồn vốn.
Trong đó, ông Dũng cho biết, quan điểm trong xây dựng chính sách là mạnh dạn hơn để phục hồi và phát triển kinh tế, vừa duy trì tăng trưởng, tăng GDP, tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn nợ công, bội chi ngân sách. Công cụ quan trọng nhất, theo ông, là theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, nợ xấu, điều hành linh hoạt cung tiền, đảm bảo nguồn cung nguyên vật liệu, đảm bảo hiệu quả mang tính dẫn dắt nguồn vốn ngoài Nhà nước cùng tham gia.
-
8h05
7 hướng xây dựng chương trình phục hồi kinh tế
Trả lời đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) hỏi về cách tiếp cận xây dựng biện pháp khôi phục kinh doanh khi doanh nghiệp đang gặp khó khăn, như nguồn vốn đứt đoạn, nguồn cung lao động thiếu, chuỗi cung ứng đứt gãy, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết có 7 hướng.
Đầu tiên là theo diễn biến của tình hình dịch bệnh, tiến độ tiêm vaccine và khả năng cung ứng thuốc điều trị khi chuyển sang trạng thái bình thường mới là thích ứng an toàn linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh.
Hai là xây dựng theo hướng mở để có thể điều chỉnh một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế của các đối tượng cần hỗ trợ trong từng thời gian cụ thể.
Ba là, chương trình sẽ vừa giúp hỗ trợ phục hồi nhanh trong ngắn hạn nhưng vừa lồng ghép với các chiến lược, kế hoạch 5 năm trong dài hạn.
Tiếp đến là các chính sách phải bảo đảm mục tiêu cao nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế như an toàn tài chính quốc gia, hoạt động ổn định của các tổ chức tín dụng, chỉ tiêu nợ công bội chi lạm phát phải đảm bảo.
Ngoài ra, các chính sách hướng tới tác động cả phía cung và phía cầu, cả kinh tế, an sinh xã hội, lao động việc làm, có trọng tâm trọng điểm.
Ông Dũng cũng lưu ý, chương trình còn phải phù hợp với khả năng trả nợ.
Cuối cùng, theo ông Dũng, là phải có nhóm nhiệm vụ giải pháp để kiểm soát chặt chẽ đảm bảo hiệu quả và mục tiêu đề ra trong chương trình.