Tham gia giải trình trong phiên trả lời chất vấn Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng sáng nay (12/11), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, chính sách tiền tệ phải thực hiện hai nhiệm vụ chính, là điều hành để góp phần kiểm soát lạm phát, vĩ mô và đảm bảo an toàn, khả năng chi trả của hệ thống.
"Việc xem xét các công cụ chính sách trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ trên hai mục tiêu này, đồng thời đảm bảo cân đối lớn của vĩ mô", bà Hồng nói thêm.
Với dư địa chính sách, Thống đốc cho rằng, việc đảm bảo chỉ tiêu lạm phát năm 2021 dưới 4% có thể đạt được, nhưng năm 2022, "rủi ro lạm phát có áp lực rất lớn".
Khi nền kinh tế thế giới dần phục hồi, giá cả hàng hóa có xu hướng gia tăng, một số mặt hàng như xăng dầu đã tăng rất cao, nhiều nước phát triển đã ghi nhận mức lạm phát cao nhất lịch sử. Tại Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 6,2% so với năm ngoái, cao nhất kể từ năm 1990. Lạm phát của Hàn Quốc cũng lần đầu tiên vượt mức 3%, cao nhất kể từ năm 2012. Tại châu Âu, giá năng lượng tăng cao đẩy lạm phát tháng 9 của khu vực đồng euro lên cao nhất trong 13 năm.
"Với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu rất lớn", Thống đốc nhận xét.
Trong bối cảnh đó, các ngân hàng trung ương trên thế giới hiện cũng giảm dần nới lỏng chính sách, theo tính toán của bà, đã có 65 lượt tăng lãi suất, tạo áp lực điều hành cho Việt Nam thời gian tới. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) mới đây đã đưa ra các tiếp cận thận trọng trong chương trình mua tài sản, trong khi các ngân hàng trung ương Na Uy, Brazil, Mexico, Hàn Quốc và New Zealand đã tăng lãi suất.
Trong phần tranh luận tại nghị trường, đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói thêm về vai trò của ngân hàng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo ông, có tới 70% doanh nghiệp vừa và nhỏ không tiếp cận được nguồn vốn vay.
Khi trả lời đại biểu Trịnh Xuân An, bà Nguyễn Thị Hồng nhắc lại nhiệm vụ thứ hai của Ngân hàng Nhà nước, đó là đảm bảo an toàn, khả năng chi trả của hệ thống. Theo bà đây cũng là vấn đề cần thận trọng khi nợ xấu của các tổ chức tín dụng đang gia tăng. Vừa qua, các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực chứ không phải từ ngân sách. Và khi nợ xấu tăng, các tổ chức cũng phải dùng nguồn lực tự có của mình để xử lý.
"Nếu nguồn lực của tổ chức tín dụng suy giảm sẽ ảnh hưởng tới hoạt động, tính an toàn của hệ thống", bà Hồng nói. Bài học từ cuộc khủng hoảng 2008-2009 theo bà vẫn còn, nếu tính toán không cẩn thận, rủi ro lạm phát có thể quay trở lại.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo cố gắng tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất nhưng phải đảm bảo mức độ an toàn của từng tổ chức tín dụng và hệ thống. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất hợp lý, trên cơ sở ổn định vĩ mô, phòng ngừa rủi ro lạm phát.
Đánh giá về việc thực hiện chính sách từ đầu năm 2020, Thống đốc nói thêm, đại dịch đã tác động nghiêm trọng tới sản xuất kinh doanh, và Ngân hàng Nhà nước thời gian qua đã tích cực thực hiện chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. Ngay từ đầu năm 2020, trong điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã ba lần giảm lãi suất, từ 1,5-2%. "Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực", bà Hồng nói.
Ngoài việc điều hành lãi suất, cơ quan điều hành cũng chỉ đạo, kêu gọi các tổ chức tín dụng giảm cả với các khoản vay cũ. Mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm 1,66% so với trước dịch, với tổng mức giảm lãi suất khoảng 30.000 tỷ đồng. Các ngân hàng cũng giảm phí hơn 2.000 tỷ đồng cho khách hàng, góp phần giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và người dân.
Minh Sơn