Rắc rối của Rivera bắt đầu từ cuộc gọi báo cảnh sát vào ngày 17/8/1992 của Dawn Engelbrecht, người mẹ sống với hai con nhỏ tại hạt Lake, bang Illinois. Trong cuộc gọi, Dawn nói Holly Staker, 11 tuổi, bé gái trông con cho mình vào tối hôm ấy đã mất tích.
Đến hiện trường, cảnh sát thấy cửa sau căn hộ của Dawn có dấu hiệu bị đột nhập. Trên sàn phòng ngủ của lũ trẻ là thi thể bán khỏa thân bị đâm nhiều nhát của Holly Staker.
Hơn hai tháng trôi qua, cảnh sát hạt Lake rà soát gần 600 nghi phạm và phỏng vấn khoảng 200 người trong số đó nhưng không có kết quả. Nhưng sau khi nhận tin báo từ đặc tình, cảnh sát bắt đầu điều tra Juan Rivera (19 tuổi), người từng có tiền án trộm cắp tài sản và đang bị quản thúc tại nhà bằng thiết bị theo dõi điện tử.
Với tiền sử bệnh tâm thần, Juan khai tại thời điểm xảy ra án mạng đang dự bữa tiệc gần hiện trường vụ án và nhận thấy một nam giới cùng tham gia có hành động rất khả nghi. Juan mô tả người này đã đến và rời khỏi bữa tiệc nhiều lần, trên người đầy mồ hôi, thở dốc và có vết xước. Juan cho rằng người này đã dùng ma túy vì có biểu hiện hoang tưởng. Tuy nhiên, quá trình điều tra của cảnh sát cho thấy không có bữa tiệc nào như Juan mô tả vào ngày Holly bị sát hại.
Ngày 27/10/1992, Juan bị chuyển đến trại giam hạt Lake. Tại đây, thám tử thẩm vấn Juan liên tục bốn ngày đêm mà không có mặt luật sư. Trả lời cảnh sát, Juan lặp lại lời khai trước đó và luôn phủ nhận liên quan án mạng.
3h ngày 30/10/1992, khi điều tra viên vừa rời đi để soạn biên bản hỏi cung, Juan có dấu hiệu loạn thần, đập đầu vào tường phòng giam, không còn khả năng nhận biết mọi việc xung quanh. Tuy nhiên, chỉ vài giờ sau đó, Juan đã ký vào biên bản mà các điều tra viên đã soạn sẵn.
Trong biên bản này, Juan mô tả nạn nhân mặc áo ba lỗ và quần đùi bó. Juan khai sau khi đi vệ sinh và quay lại phòng khách, nạn nhân đã thay quần áo. Juan thừa nhận có quan hệ tình dục đồng thuận với nạn nhân. Sau khi rời phòng ngủ, nạn nhân cầm dao quay lại và tấn công Juan. Juan nói đã đánh trả mà không biết con dao chuyển sang tay mình từ lúc nào.
Cho rằng còn một số điểm cần làm rõ thêm, khoảng 13h15' ngày 30/10/1992, hai điều tra viên khác tiếp tục quay lại phòng thẩm vấn. Lúc này, Juan đang bị còng và chưa hoàn toàn tỉnh táo sau khi được kê một vài loại thuốc an thần.
Khi thẩm vấn, điều tra viên thừa nhận đã hỏi những câu hỏi có tính định hướng câu trả lời, chẳng hạn: "Cô bé lúc đó mặc chiếc áo nhiều màu, phải không?". Họ cũng thừa nhận đã hỏi các câu hỏi khác về một số điểm chưa phù hợp ở biên bản hỏi cung lần thứ nhất. Cuộc thẩm vấn không được ghi hình lại nên các điều tra viên đánh máy biên bản hỏi cung và đưa cho Juan đọc. Theo cảnh sát, Juan thậm chí còn sửa một số lỗi chính tả trước khi ký tên. Trong biên bản hỏi cung lần này có nội dung nhận tội nên Juan bị buộc tội giết người sau đó.
Trong biên bản thứ hai, Juan khai không nhớ những đứa trẻ đang mặc gì, nhưng nạn nhân mặc quần dài màu đen có quai ở dưới và chiếc áo nhiều màu. Juan khai bị nạn nhân trêu chọc nên lấy dao trong bếp tấn công. Juan thừa nhận có quan hệ tình dục với nạn nhân, sau đó vào bếp rửa dao và tay. Theo Juan, trước khi rời căn hộ qua cửa sau, anh ta muốn tạo hiện trường giống như vụ trộm nên lấy cắp chiếc giẻ lau sàn treo ở cửa. Sau đó, Juan lấy chiếc khăn trên sàn và xóa dấu vân tay vì không đeo găng tay.
Phiên tòa sơ thẩm bắt đầu ngày 1/11/1993. Tại đây, dựa trên lời nhận tội của Juan ở biên bản thứ hai, anh bị kết án chung thân.
Bản án của Juan được lật lại vào năm 1998, tại phiên tòa xét xử lần thứ hai. Một lần nữa, công tố viên vẫn chủ yếu dựa vào lời thú tội ở biên bản thứ hai để luận tội. Lần này, nhân chứng chính của vụ án, Taylor, một trong hai đứa trẻ mà Holly đang trông khi bị tấn công, mới hai tuổi vào thời điểm xảy ra vụ án đã ra tòa làm chứng, cho rằng kẻ sát nhân là Juan. Một lần nữa, bồi thẩm đoàn nhận thấy Juan có tội, và kết án chung thân lần thứ hai.
Trong suốt những năm sau, luật sư của Juan cho rằng không có chứng cứ vật lý hay nhân chứng liên kết Juan với tội ác. Anh ta thú tội là do bị bức cung. Quan trọng hơn cả, năm 2005, xét nghiệm ADN chỉ ra rằng tinh trùng tìm thấy bên trong cơ thể nạn nhân không phải là của Juan mà là của người đàn ông khác.
Đến tháng 8/2006, thẩm phán đã hủy bản án kết tội lần thứ hai và ra lệnh xét xử lần thứ ba.
Ngày 13/4/2009, phiên tòa xét xử lần thứ ba diễn ra. Tại phiên tòa, nhiều nhân chứng đứng ra làm chứng cho Juan, bao gồm cả chuyên gia đã thực hiện xét nghiệm ADN. Công tố viên lập luận mẫu ADN thu được tại hiện trường là của người đàn ông khác có thể là do cô bé Holly đã quan hệ tình dục trước đó. Nhưng chuyên gia xét nghiệm cho rằng nếu Holly quan hệ tình dục từ trước thì ADN phải được tìm thấy trên quần lót của cô bé, tuy nhiên giám định cho thấy trên quần lót của Holly không có ADN của bất kỳ ai trừ chính cô.
Ngoài ra, trong 70 mẫu vân tay thu được tại hiện trường, không có dấu vân tay nào của Juan, mẫu máu được tìm thấy cũng không phải của Juan. Nhưng dù có chứng cứ tương đối thuyết phục, bồi thẩm đoàn vẫn kết luận Juan có tội. Ngày 25/6/2009, Juan lĩnh án chung thân lần thứ ba.
Tới tháng 12/2011, bản án của Juan Rivera được lật lại thêm một lần nữa. Các luật sư của Juan đề nghị thay thẩm phán vì cho rằng vị này đã làm chủ tọa ba phiên tòa trước đó nên không công tâm và có một số sai phạm khác. Nhưng ngay cả khi yêu cầu này đã được chấp nhận, không có gì đảm bảo rằng Juan sẽ được tự do.
Sau khi rà soát hồ sơ vụ án, thẩm phán mới nhận thấy nhiều điểm mâu thuẫn giữa hai bản khai của Juan với thực tiễn điều tra.
Cụ thể, khi cảnh sát biết có nhiều chi tiết trong bản khai thứ nhất bị sai, một nhóm điều tra viên khác được cử đến thẩm vấn thêm để "nắn" lại các nội dung còn mâu thuẫn cho khớp với thực tế tại hiện trường. Nhưng theo luật sư bào chữa, kể cả như vậy bản khai thứ hai vẫn còn nhiều điểm không chính xác. Cụ thể: Juan khai có cậu bé hai tuổi ở trong căn hộ khi xảy ra vụ án, nhưng thực tế chỉ có cô bé hai tuổi ở đó. Anh ta cũng khai rằng sau khi gây án đã đốt quần áo trong thùng rác, nhưng không có chứng cứ cho thấy trong thùng rác từng có đám cháy.
Bên cạnh đó, thẩm phán cũng cho rằng giả thuyết của công tố viên rằng mẫu ADN trong quá trình thu thập bằng chứng bị lẫn với mẫu khác hay nạn nhân đã quan hệ tình dục với người khác ngay trước khi án mạng xảy ra là vô căn cứ.
Tuy nhiên, vật chứng quan trọng nhất được luật sư bào chữa đưa ra tại phiên tòa là đôi giày. Trước đó, các công tố viên cho biết đôi giày hiệu Voit dính máu của Holly, chứng tỏ Juan đã mang nó khi phạm tội. Nhưng luật sư chỉ ra rằng, đôi giày thể thao Voit, được sản xuất tại Hồng Kông, chưa được bán ở Mỹ vào thời điểm Holly bị giết. Điều tra viên cũng đến cửa hàng nơi mẹ của Juan đã mua đôi giày và nhận được hóa đơn thanh toán thể hiện đôi giày được mua sau thời điểm vụ án mạng xảy ra.
Hơn nữa, xét nghiệm ADN thu được từ đôi giày Voit đã phát hiện ra có mẫu ADN lạ, trùng khớp với ADN thu được trong tinh dịch trên thi thể nạn nhân. Điều này củng cố giả thuyết rằng nhà chức trách đã có dấu hiệu tạo bằng chứng giả để kết tội Juan.
Năm 2012, với bằng chứng mới, tòa án phúc thẩm bang Illinois tuyên bố hủy bỏ bản án trước đó và bác bỏ cáo trạng với Juan Rivera. Vụ án của Juan cũng làm dấy lên sự hoài nghi về phương pháp điều tra mà nhà chức trách bang Illinois đã sử dụng để điều tra các vụ án tương tự.
Juan Rivera được bồi thường 20 triệu USD cho 19 năm ngồi tù, dẫu biết rằng không có số tiền nào bù đắp được cho quãng thời gian ngồi tù và danh dự của anh.
Juan cho biết dù được bồi thường số tiền lớn song cố gắng sống giản dị nhất có thể.
Bảo Trung (Theo New York Times, Innocence Project, Chicago Tribune)