![]() |
Thảm cảnh Mỹ Lai. |
Thất bại thảm hại trước cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 như đổ thêm dầu vào ngọn lửa chiến tranh của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Kế hoạch càn quét làng Mỹ Lai, tỉnh Quãng Ngãi, được thực hiện trong bối cảnh đó, ngày 16/3/1968.
5h30' sáng, Trung đội số 1, dưới sự chỉ huy của trung úy William Calley, thuộc Đại đội Charlie, Tiểu đoàn số 1, Lữ đoàn 11, cùng với Đại đội không kích trực thăng 174, bắt đầu tập trung, trang bị đầy đủ súng đạn sẵn sàng cuộc săn lùng Việt Cộng (VC). 7h20', phi đội xuất phát theo hình chữ V. Theo sau là chiếc trực thăng chở phóng viên nhiếp ảnh quân sự Ron Haerberle. 7h45', chiếc trực thăng đầu tiên của Calley hạ cánh xuống cánh đồng rìa làng, nơi có một số nông dân đang cày ruộng. Họ không dám bỏ chạy, vì kinh nghiệm cho thấy nếu vậy sẽ bị nghi là VC và ăn đạn. Nhưng thật không may, ngày hôm đó, lính Mỹ coi mọi người dân đều là VC. Calley đã ra lệnh cho binh lính xả súng quét sạch những nông dân đó. Cuộc càn quét tiến sâu vào trong làng. Chúng quây dân làng theo từng nhóm nhỏ, lùa vào nhà rồi tung lựu đạn. Một tốp khác đẩy dân xuống mương rồi xả đạn không thương tiếc. Người, lợn, gà, chó... chạy nháo nhác. Hàng trăm vụ cưỡng hiếp, giết người xảy ra ở mọi nơi. Ngôi làng chìm trong biển lửa.
![]() |
Hugh Thompson. |
Lúc đó, chuẩn uý Hugh Thompson, 25 tuổi, người điều khiển trực thăng H-23, khi chứng kiến cảnh lính Mỹ chĩa súng đuổi theo một số người chạy loạn trên cánh đồng, đã đáp xuống ngăn lính Mỹ lại. Thompson phát khùng và to tiếng với Calley, anh chĩa súng uy hiếp Calley và đưa những người dân đáng thương lên trực thăng quay về thị xã Quãng Ngãi.
![]() |
Cả mẹ và con đều bị giết. |
Tuy nhiên, hành động đó không làm Calley dừng tay. Cuộc thảm sát kéo dài tới tận chiều tối. Số người bị giết theo thống kê của dân làng là 504 người, trong đó có 182 phụ nữ (17 người đang mang thai), 173 trẻ nhỏ (56 bé còn ở tuổi ẵm bồng) và 60 cụ già trên 60 tuổi. Tất cả họ đều không có vũ khí phòng thân. Cuộc càn quét cũng không phát hiện, bắt giữ được một VC nào.
Vụ thảm sát đã gây chia rẽ giữa bên lên án và bên say máu giết chóc vô cớ trong nội bộ Lữ đoàn 11 (trụ sở đóng tại Đức Phổ, Quảng Ngãi). Một cuộc điều tra được tiến hành qua loa nhằm dìm sự thật vào im lặng. Những cảnh dã man chỉ còn được thuật lại qua các lời xì xào bàn tán của lính Mỹ.
Trong năm 1968, một lính Mỹ đã gửi thư tới tướng Creighton Abrams, người chỉ huy quân lực Mỹ lúc đó, mô tả cuộc hành quân phi nhân tính này. Nhưng anh chỉ nhận được phúc đáp từ trợ lý, sau này là thiếu tá Colin L. Powell, hiện là Ngoại trưởng Mỹ: “...quan hệ giữa lính Mỹ và dân Việt Nam Cộng hoà rất tốt đẹp”.
Lá thư tố giác
Ron Ridenhour, 21 tuổi, đến Việt Nam tháng giêng, 1968. Anh phục vụ trong đơn vị đặc biệt Đội không lực trinh sát đường dài, thuộc Lữ đoàn 11 tại Chu Lai. Mặc dù không trực tiếp chứng kiến nhưng qua các lời đồn đại khắp doanh trại, Ridenhour nhận thấy đằng sau đó chắc chắn có sự thật tàn nhẫn cần được xét xử. Khi hoàn thành nghĩa vụ, quay về Mỹ, anh đã đệ thư lên một loạt quan chức Mỹ, gồm cả thượng nghị sĩ Morris Udall, bang Arizona, trong đó viết:
“Trung uý Kalley đã tập trung từng nhóm dân làng (mỗi nhóm ít nhất 20 người). Theo lời kể của binh sĩ, Kalley sau đó đã xả súng vào từng nhóm... dân số của làng khoảng 300-400 người và khó còn người nào có cơ may sống sót”.
Ridenhour cũng giải thích anh muốn sự thật về Mỹ Lai được làm sáng tỏ. Anh tin vào sự công bằng và nếu vụ thảm sát Mỹ Lai nếu không được nghiêm trị thì sẽ vi phạm các giá trị cơ bản mà người Mỹ dựng nên. Bức thư đề ngày 29/3/1969. Áp lực, tưởng chừng có thể làm phụt tung dòng nham thạch của núi lửa, lan rộng suốt chính trường, quân đội cũng như dư luận Mỹ.
Điều traMùa hè năm 1969, quân đội Mỹ mở cuộc điều tra do đại tá William Wilson phụ trách về hành động của Tiểu đoàn số 1 tại Mỹ Lai, miền Nam Việt Nam. Ông là người từng có mặt trên chiến trường Congo năm 1965, được trao tặng nhiều huân chương cao quý và được quân sĩ kính trọng đặt cho biệt danh Người lính của người lính. Ông đã phỏng vấn Ridenhour, Thompson (người phi công dám chĩa súng ngăn cản hành động giết người của Calley năm đó). Càng biết nhiều tình tiết, ông càng cảm thấy lo sợ và thốt lên: “Tôi đã từng cầu Chúa cho điều này chỉ là chuyện hư cấu, nhưng giờ đây tôi biết, đó là sự thật”.
Kết luận của Wilson được giao cho tướng William Peers, người tiến hành điều tra diện rộng hơn, thu thập từng bằng chứng nhỏ nhất về vụ thảm sát Mỹ Lai, thậm chí phải quay vùng đất đầy máu và lửa này. Báo cáo của Peers chi tiết hoá nhiều vụ hãm hiếp, giết chóc người già, trẻ nhỏ và buộc tội Calley giết người vô tội.
Tổng thống Richard Nixon đã giao vụ này cho Toà án quân sự xử trí. Ngày 6/9/1969, hai ngày trước khi buộc phải rời quân ngũ, Calley chính thức bị truy tố tại Fort Benning, bang Georgia, với tội danh giết 109 người.
Xử án
![]() |
Calley năm 1969. |
Toà án quân sự xét xử William Calley tại Fort Benning, bang Georgia, bắt đầu ngày 17/11/1970. Công tố viên là đại tá Aubrey M. Daniel III, 28 tuổi, người còn ít kinh nghiệm. Luật sư biện hộ của Calley là George Latimer, một cựu quan toà quân sự. Theo cáo trạng bên quân đội, Calley đã “giết 109 người châu Á”. Chỉ một vài lính thuộc trung đội của Calley đồng ý ra làm chứng, còn lại từ chối. Các bức ảnh sống động của phóng viên chiến trường Haerberle cũng là bằng chứng sắc cạnh.
Ban bồi thẩm gồm 6 người: 1 đại uý, 4 thiếu tá và 1 đại tá. Tất cả đều từng chinh chiến trên các mặt trận từ Triều Tiên tới Việt Nam. Họ là những người nếm trải địa ngục của chiến tranh qua chính kinh nghiệm bản thân.
Trong suốt quá trình xét xử, Calley tỏ ra là một người lính tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh. Hắn được sống trong một căn hộ riêng biệt tại doanh trại ở Fort Benning.
Trong quá trình xét xử, ngày 11/1/1971, Paul Meadlo, 23 tuổi, một binh sĩ dưới quyền Calley thú nhận anh ta cùng Calley đã đẩy chừng gần 100 người xuống mương, chĩa súng máy nhả đạn liên tiếp vào phụ nữ, trẻ em, người già. “Tôi đứng bên cạnh Calley. Anh ta ra lệnh bắn. Anh ta đã xả hết 4 hay 5 băng đạn gì đó”, Meadlo kể lại. Dennis Conti, một nhân chứng khác cho biết, trong ngày khủng khiếp đó, Meadlo cuối cùng đã gần như bật khóc và không thể tiếp tục được nữa, nhưng Calley ép anh ta không được ngừng tay súng. Tất cả bằng chứng gộp lại cho thấy, Calley đã nạp 10-15 băng đạn, trong khi các nạn nhân rên siết dưới lòng mương, các bà mẹ ra sức che đạn cho con nhỏ...
Khi Calley đứng lên tự biện hộ, hắn ngạo mạn cho rằng “giết người” là một phần công việc phá huỷ mọi thứ tại Việt Nam. Hắn nói: “Tôi không thể dừng lại cân nhắc xem chúng là nam, là nữ hay là trẻ con... Tôi thực hiện mệnh lệnh được giao và tôi không thấy có gì sai trái”. Luận điệu ấy lặp lại nhiều lần đã buộc đại uý Ernest Medina, thượng cấp của Calley, phải hầu toà. Ông ta phủ nhận mọi cáo buộc của Calley: “Không, anh (Calley) không được giết phụ nữ và trẻ con... Nếu họ có vũ khí và định bắt giữ anh thì anh mới có quyền bắn trả”.
Bản án giữa đôi dòng dư luậnNgày 29/3/1971, toà án kết tội Calley giết chết ít nhất 22 người Việt. Sau khi nghe tội danh, hắn đã đứng thẳng dậy, hướng về chủ tịch bồi thẩm đoàn, nghiêm trang chào theo kiểu nhà binh. Ngày hôm sau, toà tuyên án tù chung thân và lao động khổ sai.
Bản án khiến nhiều người không tâm phục khẩu phục. Một số cho rằng Calley chỉ là bia đỡ đạn cho các quan chức quân sự cấp cao, những người đáng lẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp về vụ thảm sát này. Tuy nhiên, dư luận Mỹ lại đòi chính quyền tha bổng cho Calley. Chỉ hai ngày sau, 1/4/1971, tổng thống Nixon đặc cách cho Calley chỉ phải chịu quản thúc tại gia trong khi tiến hành thủ tục phúc thẩm. Phản ứng lại ân chuẩn này, công tố viên Daniel đã gửi thư công khai chỉ trích tổng thống: “Quyết định của ngài thật sai lầm, vì như vậy sẽ khiến nhiều người Mỹ không nhận thức được khía cạnh đạo đức của vấn đề... Đó là, việc lính Mỹ bắn vào những người tay không và thiếu khả năng kháng cự là bất hợp pháp”.
Vài năm tiếp theo, Calley vẫn tiếp tục được sống dưới mái nhà của mình. Hắn từng nói với phóng viên: “Tôi rất tự hào vì đã phục vụ quân đội Mỹ và tham gia trận Mỹ Lai”. Năm 1973, mức án của hắn được bộ trưởng Quân đội giảm xuống 10 năm. Ngày 9/9/1974, Calley được ân xá. Như vậy, hắn ta chỉ thụ án tại gia 3,5 năm và khoảng 1 tháng cho mỗi 10 người dân Mỹ Lai bị giết.
Hiện nay, Calley sống ẩn dật tại Columbus, bang Georgia và làm việc cho cửa hàng trang sức của gia đình. Hắn từ chối các cuộc tiếp xúc với báo giới và tránh nhắc về Việt Nam. Ngược với Calley, Thompson đã trở về thăm lại mảnh đất Mỹ Lai và được dân làng nơi đây đón tiếp nồng hậu. Ông không ngại gặp gỡ báo chí với nụ cười rạng rỡ trên môi.
Có lẽ hình phạt thích đáng nhất Calley và những tên tội phạm khác dấu mặt trước toà là nỗi ám ảnh Mỹ Lai dai dẳng suốt cuộc đời. Riêng với Calley, tên của hắn được lưu giữ trong lịch sử thế giới với cái mác của một kẻ giết người hàng loạt.
Mark Gado là một cảnh sát điều tra của Phòng cảnh sát thành phố New Rochelle tại New York, nơi ông đã làm việc được 25 năm.
Đôi nét về tác giả Mark Gado
Mark Gado là một cảnh sát điều tra của Phòng cảnh sát thành phố New Rochelle tại New York với 25 năm thâm niên. Mark có bằng cử nhân về tư pháp tội phạm năm 1997 và thạc sĩ về tư pháp tội phạm năm 2001. Trong nghề nghiệp, ông từng nhận Giải thưởng Danh dự quốc tế của Hiệp hội Người chống ma tuý tại New Orleans, bang Los Angeles, năm 1998. Mark cũng nhận được danh hiệu Điều tra viên năm 2000 và nhiều giải thưởng cao quý khác trong ngành cảnh sát.
Là một nhà văn nghiệp dư, 20 năm qua, các bài báo của ông đã được đăng nhiều trên các tờ báo nổi tiếng thế giới, như tạp chí Những ngày kỳ lạ (Strange Days), Thi hành pháp luật (The Law Enforcement Journal).
Bài lược dịch này dựa trên những tư liệu mà ông cung cấp trong tác phẩm Into the dark: My Lai massacre.
Mai Chi (Theo Crimelibrary)