Nửa giờ sau, cô bé 10 tuổi vẫn chưa về đến ngôi nhà ở Eching, vùng Thượng Bavaria của Đức. Mẹ em lại gọi điện và người cô nói rằng Ursula đã rời đi 25 phút trước. Cả hai ngay lập tức biết có điều gì đó không ổn.
Bố và chú của Ursula cùng những người hàng xóm, cảnh sát và lính cứu hỏa tỏa đi tìm và chỉ phát hiện chiếc xe đạp nhỏ màu đỏ của cô bé trong bụi rậm cách đường mòn 20 m.
Sáng 17/9/1981, khi Ursula đã mất tích hơn 36 giờ, chuông điện thoại nhà Herrmann reo lên. Bố mẹ Ursula bắt máy, họ chỉ nghe thấy tiếng nhạc hiệu ngắn quen thuộc mà họ nhận ra là từ bản tin giao thông trên đài phát thanh Bayern 3, sau đó là một khoảng im lặng và tiếng động lại vang lên trước khi người gọi cúp máy. Ba cuộc gọi tương tự diễn ra trong vài giờ sau đó. Một nhóm cảnh sát đến nhà Herrmann ghi âm các cuộc gọi.
Ngày hôm sau, bố của Ursula nhận được một lá thư đóng dấu chuyển phát nhanh. Trong thư là tờ giấy với những chữ cái được cắt ra từ các tờ báo, với nội dung "Chúng tôi đã bắt cóc con gái anh. Nếu anh muốn con gái mình sống sót thì hãy trả hai triệu DM (550.000 USD theo thời giá khi đó)".
Những kẻ bắt cóc tưởng rằng bức thư sẽ đến sớm hơn một ngày nên giải thích trong thư rằng sẽ gọi điện thoại cho Herrmann và sử dụng tiếng nhạc làm dấu hiệu. "Anh chỉ cần nói trong điện thoại anh có trả tiền hay không. Nếu anh gọi cảnh sát hoặc không trả tiền, chúng tôi sẽ giết con gái anh".
Khi những kẻ bắt cóc gọi lại vào chiều hôm đó, mẹ của Ursula đồng ý trả tiền chuộc. Bà cũng yêu cầu bằng chứng cho thấy con gái còn sống sót bằng cách hỏi những kẻ bắt cóc Ursula đặt biệt danh gì cho hai con thú nhồi bông của mình. Cô hốt hoảng khi những kẻ bắt cóc không trả lời. "Hãy nói với tôi, nói một điều gì đó từ Ursula đi!".
Tối hôm đó những kẻ bắt cóc gửi lá thư thứ hai với những chỉ dẫn cụ thể về tiền chuộc: họ muốn nhận được những tờ tiền 100 DM đã qua sử dụng được bỏ vào trong vali. Họ còn yêu cầu bố của Ursula đi giao tiền bằng cách lái xe một mình với tốc độ không quá 90km/h, đến một địa điểm sẽ thông báo chi tiết sau.
Vợ chồng Herrmann không giàu có, nên một người hàng xóm đã đứng ra hô hào mọi người ủng hộ tiền chuộc, chính quyền bang cũng đồng ý chi phần còn thiếu.
Vợ chồng Herrmann chờ đợi những kẻ bắt cóc đưa ra thêm chỉ dẫn nhưng họ không nhận được bất cứ lá thư và cuộc gọi nào nữa. Cảnh sát cũng không có manh mối nào. Hai tuần trôi qua, 100 cảnh sát và 10 con chó nghiệp vụ được triển khai để tìm kiếm.
19 ngày sau khi Ursula mất tích, trong khi tìm kiếm bên hồ, một cảnh sát phát hiện vật cứng dưới lớp đất mềm. Khi đào lên, viên cảnh sát tìm thấy tấm ván gỗ sơn xanh hình chữ nhật kích cỡ 72x60 cm, bị khóa ở bên trên.
Dùng xẻng phá khóa, viên cảnh sát phát hiện một thùng gỗ, bên trong là thi thể lạnh cóng, bất động của Ursula. Anh và các đồng nghiệp đều rơi nước mắt khi đưa thi thể cô bé ra ngoài.
Hai thám tử được cử đến nhà bố mẹ Ursula để báo tin. Bố cô bé liên tục hỏi: Ursula có bị thương trước khi chết không? Câu trả lời là không. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy Ursula đã chết trong vòng 30 phút đến 5 giờ sau khi bị chôn sống trong thùng. Vì không có dấu hiệu cho thấy có sự dịch chuyển hay cào cấu bên trong thùng, các bác sĩ cho rằng cô bé đã bị chuốc thuốc từ trước.
Dường như những kẻ bắt cóc đã lên kế hoạch để giữ Ursula sống sót. Chiếc thùng gỗ sâu 1,4 m được gắn một chiếc kệ và một chỗ ngồi có thể được dùng như toilet. Trong thùng có ba chai nước, 12 lon nước ngọt, 6 thanh sôcôla lớn, 4 gói bánh quy và hai gói kẹo cao su. Nó còn chứa 21 quyển sách, từ truyện tranh Donald Duck cho đến tiểu thuyết lãng mạn và gay cấn, cùng đèn và một radio nhỏ được điều chỉnh đến kênh Bayern 3.
Chiếc thùng có một hệ thống thông gió được làm từ các ống nhựa, nối dài đến mặt đất để giúp Ursula có thể hít thở. Nhưng người thiết kế chiếc thùng này đã không nhận ra rằng nếu không có máy lưu thông không khí, oxy trong thùng sẽ nhanh chóng cạn kiệt.
Cảnh sát tin rằng có ít nhất hai kẻ bắt cóc vì kích thước và trọng lượng của chiếc thùng. Thủ phạm phải biết rõ về khu rừng vì họ đã chọn một địa điểm xa xôi và đã tránh được sự chú ý khi đào hố.
Cảnh sát treo thưởng 30.000 DM cho người cung cấp manh mối. Một người bị tố cáo là Werner Mazurek, 31 tuổi, sống cùng vợ và hai con, cách nhà của Herrmann vài trăm mét, làm công việc sửa chữa TV. Mazurek cao lớn và nóng tính, không được lòng những người hàng xóm. Anh ta còn nợ ngân hàng hơn 140.000 DM, vì vậy, anh ta có động cơ gây án.
Khi bị cảnh sát thẩm vấn, ban đầu Mazurek không thể nhớ mình đã làm gì vào đêm cô bé mất tích. 24 giờ sau, Mazurek cung cấp bằng chứng ngoại phạm: anh chơi trò Risk (trò chơi tương tự Cờ tỷ phú) với vợ và hai người bạn. Cảnh sát khám nhà và xưởng của Mazurek nhưng không tìm thấy dấu hiệu phạm tội.
Cuối tháng đó, đội pháp y kiểm tra chiếc thùng chứa thi thể Ursula và phát hiện dấu vân tay trên một đoạn băng dính. Họ lấy dấu vân tay của hàng nghìn người dân địa phương, bao gồm Mazurek, để đối chiếu nhưng không phát hiện nghi phạm nào.
Cảnh sát vẫn nghi ngờ Mazurek có liên quan đến vụ án. Cuối tháng 1/1982, họ bắt anh ta cùng với hai người bạn, thẩm vấn trong vài ngày rồi thả họ. Một tháng sau, một người quen khác của Mazurek bị thẩm vấn là Klaus Pfaffinger, thợ cơ khí thất nghiệp nghiện rượu. Anh này khai rằng Mazurek đã thuê mình đào một cái hố trong rừng vào đầu tháng 9/1981 với thù lao 1.000 DM và một chiếc tivi màu.
Tuy nhiên, khi bị yêu cầu thực nghiệm hiện trường, Pfaffinger không thể dẫn cảnh sát đến đúng địa điểm chôn chiếc thùng nhốt Ursula. Pfaffinger sau đó rút lại lời khai và cuối cùng được thả mà không bị truy tố. Đến cuối thập niên 1980, cuộc điều tra lâm vào bế tắc. Tuy nhiên, nhiều người Đức vẫn nhớ đến vụ án cô bé 10 tuổi bị chôn sống, truyền thông gọi đây là vụ án "cô bé trong thùng".
Năm 2005, giới chức sử dụng phân tích ADN để kiểm tra bằng chứng nhưng họ không tìm thấy nghi phạm nào. Vời thời điểm đó, thời hiệu ba mươi năm cho vụ án bắt cóc đang đến gần và các nghi phạm chính bị điều tra lại.
Pfaffinger khi đó đã qua đời còn Mazurek bị cảnh sát giám sát, khám nhà và phải cung cấp mẫu nước bọt vào tháng 10/2007, nhưng cảnh sát không tìm được kết quả trùng khớp để truy tố ông ta.
Tuy nhiên, trong quá trình khám xét nhà của Mazurek, cảnh sát thu được một máy ghi âm và nghi ngờ nó được sử dụng để phát tiếng nhạc hiệu radio trong các cuộc gọi tới nhà Herrmann. Mazurek bị bắt vào ngày 28/5/2008 và bị xét xử vào tháng 2/2009.
Công tố viên cho rằng Mazurek có đủ công cụ để chế tạo chiếc thùng vì anh ta có xưởng riêng, cũng như đã sát sao theo dõi thông tin của cảnh sát trong quá trình tìm kiếm cô bé. Anh ta mắc nợ số tiền lớn và còn từng bàn luận về thời hiệu vụ án với một người bạn.
Họ nhận định máy ghi âm của Mazurek tạo ra tiếng động mà gia đình Herrmann đã nghe thấy khi trò chuyện với kẻ bắt cóc. Các công tố viên cũng lật lại lời khai của Pfaffinger, cho rằng ông ta đã cố tình giả vờ không biết nơi chôn chiếc thùng. Trong khi đó, Mazurek bác bỏ lập luận của cảnh sát, nói rằng anh mới mua máy ghi âm một tuần trước cuộc đột kích của cảnh sát, nhưng giới chức không tìm được người bán để chứng thực.
Tòa án ở Augsburg kết luận Mazurek có tội và tuyên án tù chung thân vào ngày 25/3/2010 vì tội bắt cóc gây hậu quả nghiêm trọng.
Tuy nhiên, Michael, anh của Ursula, nghi ngờ Mazurek không phải là thủ phạm vì các bằng chứng không đủ sức thuyết phục. Anh đưa ra một tuyên bố bằng văn bản trước tòa, nói rằng lập luận về máy ghi âm "không đầy đủ hoặc phiến diện".
Năm 2013, Michael kiện Mazurek tại tòa án quận Augsburg, yêu cầu bồi thường 20.000 EUR vì anh đã phải chịu thiệt hại về sức khỏe trong quá trình vụ án hình sự diễn ra. Thực chất, Michael cho rằng Mazurek đã bị kết án oan và hành động của anh nhằm khiến tòa kiểm tra lại vụ án Ursula.
Vụ kiện nói trên được xử vào năm 2016. Mặc dù các thẩm phán nhận thức được động cơ của Michael trong quá trình tố tụng, quá trình xét xử vẫn được diễn ra trong hai năm. Các bằng chứng bác bỏ lập luận về máy ghi âm được nêu ra, cùng với phân tích pháp y về thư đòi tiền chuộc cho thấy người viết thư khó có thể là Mazurek.
Tháng 5/2018, thẩm phán ra phán quyết yêu cầu Mazurek trả cho Herrmann 7.000 USD. Với quyết định đó, tòa ngầm khẳng định kết luận Mazurek đã thật sự bắt cóc Ursula và án chung thân với Mazurek vẫn giữ nguyên.
Trong thời gian xét xử, Mazurek đã gửi thư cảm ơn Michael vì nghi ngờ mình bị oan. Michael không hồi âm cho đến năm 2013. "Nếu anh không phải là thủ phạm thì tôi mong giới chức làm sáng tỏ thêm nhiều điều và anh có thể được giải oan. Còn nếu anh thật sự là thủ phạm, hãy cút xuống địa ngục!", Michael viết.
Phương Vũ (Theo Guardian)