"Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm, các bạn đừng nghe lời tướng Giáp mà đánh vào. Đánh vào không còn đường về với bố mẹ".

Tiếng loa dụ hàng từ cứ điểm Him Lam của quân đội viễn chinh Pháp vang vọng suốt ngày đêm giữa núi rừng Mường Thanh, lặp đi lặp lại. Nhưng các chiến sĩ của Đại đoàn 312 bao vây bên ngoài căn cứ Pháp không hề bị lung lay.

"Chúng tôi đâu để ý vì tinh thần chiến đấu lên cao, ai cũng chờ giờ nổ súng", cựu binh Nguyễn Hữu Chấp, Trung đoàn 209, Đại Đoàn 312, kể về những ngày "khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt" trên chiến hào Điện Biên Phủ.

Hành quân từ 0h đến rạng sáng, bám trụ suốt ngày dài trong đường hào sâu quá đầu, chỉ rộng bằng cánh tay, nhưng không ai nao núng, kiên nhẫn chờ hiệu lệnh tiến công. Tất cả chiến sĩ đều sẵn sàng cho một trận chiến dài "đánh chắc, tiến chắc".

"Đây là trận đánh không được phép thua", đại tướng Võ Nguyên Giáp kể trong hồi ký Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử.

Thời điểm đó, cuộc xâm lược của Pháp tại ba nước Đông Dương (Lào, Campuchia, Việt Nam) đã bước sang năm thứ 9. Các bên đều trong thế giằng co, bất phân thắng bại. Pháp ngày càng kiệt quệ cả về người và của - thiệt hại hơn 320.000 binh lính, sĩ quan và tiêu tốn 3.000 tỷ franc. Giới cầm quyền muốn tìm kiếm "lối thoát danh dự" nhằm kết thúc chiến tranh.

Trọng trách tạo ra bước ngoặt ấy được trao cho Henri Navarre (Nava), Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Đông Dương thứ 7. Một bản kế hoạch tác chiến mang tên chính mình được vị tân chỉ huy vạch ra, với viện trợ từ đồng minh Mỹ. Nava đặt mục tiêu trong vòng 18 tháng, xây dựng lực lượng cơ động vượt trội đối phương, xoay chuyển tình thế, tìm kiếm chiến thắng.

Cùng lúc, Kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 được Bộ Chính trị Việt Nam thông qua, xác định Tây Bắc làm hướng hoạt động chính. Giữa tháng 11/1953, đơn vị chủ lực lên đường ra mặt trận.

Những động thái quân sự của quân đội Việt Nam khiến đối phương không thể ngồi yên. Nava quyết định huy động lượng lớn binh lực, lập một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.

Điện Biên Phủ, nằm phía tây vùng núi Tây Bắc, sát biên giới Việt Lào, là nơi được chọn. Nava đánh giá căn cứ địa này sẽ là "con nhím" chặn đường chủ lực của Việt Minh, giúp Pháp đứng vững ở Tây Bắc, đồng thời làm "chìa khóa bảo vệ Thượng Lào". Pháp tin rằng Điện Biên Phủ là "canh bạc" quyết định vận mệnh cuộc chiến.

Ngày 20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù tái chiếm Điện Biên Phủ. Đại tá De Castries được giao làm Chỉ huy Binh đoàn tác chiến Tây Bắc, dưới trướng tướng Nava. Đây là bước khởi đầu cuộc tiến công quy mô của Pháp, biến căn cứ không quân - bộ binh Điện Biên Phủ thành "tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm".

Điện Biên Phủ là thung lũng dài 18 km, rộng 6-8 km, xung quanh là đồi núi, rừng rậm. Các tướng Pháp nhận định vị trí cách xa đồng bằng sẽ gây khó khăn cho đường tiếp tế của Việt Minh, không thể vận chuyển lượng lớn vũ khí hạng nặng lên núi cao, hiểm trở. Trong khi quân viễn chinh Pháp dễ dàng tiếp ứng bằng đường hàng không từ sân bay lân cận như Mường Thanh, Hồng Cúm, hay từ xa như Gia Lâm, Cát Bi...

"Những điều kiện quân sự để chiến thắng đã hội đủ", vị Tổng tư lệnh Đông Dương tự tin tuyên bố với binh lính khi tập đoàn cứ điểm vừa hình thành.

Bản đồ tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm của Pháp

Căn cứ Điện Biên Phủ gồm ba phân khu (Trung tâm, Bắc, Nam) với 49 cứ điểm. Hệ thống này được tổ chức thành 8 cụm chính, gọi là trung tâm đề kháng. Tổng cộng 3.000 tấn dây thép gai đã được chuyển đến để tạo nên lớp hàng rào rộng 50-60 m vây quanh mỗi cứ điểm - gấp 3 tiêu chuẩn bình thường.

Phân khu trung tâm có sân bay Mường Thanh - “dạ dày” của tập đoàn cứ điểm, cũng là nơi đặt Sở Chỉ huy. Khu vực này tập trung 2/3 lực lượng địch, được chia thành 5 cụm cứ điểm: Claudine, Huguette, Dominique, Eliane, và Béatrice (Him Lam).

Cách 2-3 km về phía bắc và đông bắc là phân khu Bắc, có hai cụm cứ điểm Gabrielle (Độc Lập) và Anne Marie (Bản Kéo) làm nhiệm vụ bảo vệ khu Trung tâm và mở rộng vùng an toàn trên sân bay.

Cách 7 km về phía nam là cụm cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm) - nơi đặt sân bay dự bị. Địa bàn này được đặc biệt tổ chức thành căn cứ pháo binh chi viện cho việc phòng ngự của trận địa trung tâm.

Trước hành động của Pháp, tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm trận địa chiến lược trong Kế hoạch Đông Xuân 1953-1954. Chỉ huy trưởng chiến dịch là đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Kế hoạch ban đầu, quân Việt Minh sẽ "đánh nhanh, thắng nhanh" trong 2 ngày 3 đêm, tận dụng thời cơ Pháp chưa hoàn thiện trận địa. Thế nhưng, phân tích tương quan lực lượng và năng lực của quân Việt Minh lúc đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá không thể chắc thắng - nhiệm vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trước ngày ra trận.

Cuộc họp Đảng ủy ngày 26/1/1954, tướng Giáp đưa ra "quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình": Hoãn tấn công. Phương án tác chiến được đổi thành "đánh chắc, tiến chắc". Bộ đội lui về địa điểm tập kết, kéo pháo ra, chuẩn bị lại theo cách đánh mới.

Tương quan lực lượng

"Chúng ta vẫn ở thế yếu đánh mạnh", đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá tương quan lực lượng trước cuộc tiến công.

Thông thường, lực lượng bộ binh phía tấn công phải gấp 5 lần phòng thủ, nhưng quân Việt Minh chưa đạt tỷ lệ này. Về pháo binh, quân đội Việt Nam hơn Pháp về số khẩu đội, song lượng đạn pháo dự trữ rất hạn chế. Chưa kể, Việt Minh hoàn toàn không có xe tăng và máy bay. Vũ khí bí mật trong trận này là pháo cao xạ 37 mm - do Trung Quốc và Liên Xô tài trợ - lần đầu tiên xuất hiện, nhưng chỉ có một trung đoàn đối phó với toàn bộ không quân của Pháp.

Với phương châm "đánh chắc, tiến chắc", chiến thuật của quân Việt Minh là tấn công từ ngoài vào, bao vây, tiếp cận đối phương. Tướng Giáp vạch ra ba bước: đầu tiên, đưa pháo vào trận địa; sau đó, xây dựng hệ thống giao thông hào để dần bóp nghẹt quân viễn chinh Pháp, "chặt đứt" đường tiếp tế từ sân bay; cuối cùng, tổng công kích tiêu diệt đối phương.

Trong phương án tác chiến mới, trận địa chiến hào có tính quyết định. Một mặt, mạng lưới đường hào giúp hạn chế thương vong do hoả lực từ pháo binh và không quân của Pháp, một mặt là con đường tiếp cận các cứ điểm đối phương một cách hữu hiệu nhất. Đây vừa là chiến tuyến, vừa là lá chắn để quân Việt Minh ẩn nấp, phòng thủ.

Chiến dịch được chia làm 3 đợt tiến công, gồm: đợt 1, tấn công các cứ điểm phía Bắc, mở đường vào lòng quân Pháp; đợt 2, đánh vào trung tâm đầu não; đợt 3, tiêu diệt hoàn toàn "con nhím" Điện Biên Phủ.

13/3/1954 được chọn là ngày khai hoả.

Đúng lúc đó, 4 nước lớn Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp thống nhất tổ chức Hội nghị quốc tế ở Geneve bàn về lập lại hòa bình tại Đông Dương, dự kiến diễn ra cuối tháng 4/1954. Một trận thắng lớn sẽ là lợi thế trong cuộc đàm phán.

Pháp không muốn "tay trắng" ngồi vào bàn thương lượng. Còn với quân đội Việt Nam, đây là trận đánh "không được phép thua".

Mục tiêu đầu tiên của Việt Nam là tiêu diệt cụm cứ điểm gồm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, để phá vỡ phòng tuyến Pháp, mở hướng tấn công vào "con nhím" Điện Biên Phủ. Him Lam là đích nhắm đầu tiên.

Pháo đài Him Lam nằm trên ba quả đồi, do 750 lính Pháp phòng giữ. Ngoài "lưới lửa" gồm các loại súng hiện đại, chiến hào tại đây được đối phương xây dựng với cấu trúc hình vành khăn, nhiều tầng xen kẽ lô cốt. Vòng ngoài có 4-6 hàng rào dây thép gai, kết hợp bãi mìn rộng 100-200 m.

Để tiếp cận và phá vỡ vòng vây Pháp, công việc đầu tiên của quân Việt Minh là kiến trúc hệ thống công sự. Nhiệm vụ lúc đầu chỉ tiến hành ban đêm, làm tới đâu ngụy trang tới đó. Trời vừa tối, từ nơi trú quân, bộ đội tiến ra cánh đồng, trong tay cầm cuốc và xẻng, cật lực đào trận địa.

Có hai loại đường hào, đều sâu khoảng 1,7 m: hào trục dành cho cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động lực lượng lớn - rộng 1,2 m; và hào bộ binh để tiếp cận đối phương - rộng 0,5 m.

Khi đường hào kéo dài hàng chục km ra cánh đồng, quân Việt Minh không cách nào che mắt đối phương. Pháp điên cuồng dùng pháo binh và không quân bắn phá suốt ngày đêm, đồng thời đưa quân ra trận địa ở gần để san lấp và gài mìn ngăn chặn bộ đội đào tiếp. Hai bên bắt đầu giằng co từng mét hào, mỗi tấc đất đều được trả bằng máu.

Cùng với lập trận địa chiến hào, hai nhiệm vụ trọng yếu là kéo pháo vào chiến trường và hậu cần tiếp tế. Sức người, sức của ở hậu phương được huy động tối đa, với tinh thần "Tất cả cho mặt trận".

Hàng trăm km đường núi được tu sửa và mở mới chỉ với xẻng, cuốc và ít thuốc nổ. Tuyến đường Tuần Giáo - Điện Biên dài hơn 80 km vốn dành cho ngựa thồ, được mở rộng gấp rút trong 20 ngày cho xe kéo pháo vào vị trí tập kết. Suốt thời gian đó, máy bay Pháp không ngừng dội bom xuống các con đường, tưới đạn lên những đoàn dân công, nhưng không thể chặt đứt đường tiếp tế của Việt Minh.

Sau gần hai tháng chuẩn bị, đạn và gạo trong kho đã đủ cho đợt một. Pháo ở vị trí xung phong. Mũi hào đâm thẳng vào cứ điểm Pháp. Mọi thứ sẵn sàng cho trận quyết chiến.

17h5 ngày 13/3/1954, đại tướng Võ Nguyên Giáp nối máy gọi Đại đoàn Công pháo. Mệnh lệnh tấn công được đưa ra. 40 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn.

Chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức khai màn.

Đại đoàn 312 từ ba hướng tấn công vào Him Lam. Trung đoàn 141 là lực lượng chính, chia làm hai mũi tiến công từ hướng bắc (Tiểu đoàn 11) và trợ công hướng đông bắc (Tiểu đoàn 428). Còn Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209 tiến công từ hướng đông nam.

Nhìn vào hệ thống chiến hào, Pháp dự đoán trước hai cụm cứ điểm Him LamĐộc Lập sẽ bị tấn công đầu tiên, nhưng vẫn bất ngờ trước hoả lực của Việt Minh. Thiếu tá Paul Pégot, Tiểu đoàn trưởng cụm cứ điểm Him Lam, tử trận do hầm chỉ huy trúng pháo.

Him Lam thất thủ chỉ sau 6 tiếng. Quân Việt Minh hoàn toàn làm chủ trận địa, mở cửa để đưa lực lượng áp sát phân khu Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 300 lính viễn chinh Pháp bị tiêu diệt, 200 lính bị bắt.

Sau khi làm chủ cứ địa Him Lam, chiều 14/3, quân Việt Minh tiếp tục tấn công đồi Độc Lập. Trận địa được canh giữ bởi Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 7 Algeria và một đại đội ngụy Thái. Ngoài hệ thống công sự mạnh, đồi Độc Lập còn được tăng cường đại đội cối 120 mm, chi viện bởi pháo binh ở Mường Thanh và Hồng Cúm.

Đúng 17h ngày 14/3, trọng pháo của Việt Minh bắn phá cứ điểm Độc Lập. Trung đoàn 165, Đại đoàn 312, băng qua hàng rào hoả lực dày đặc, tiến vào theo hướng đông nam. Cùng lúc, mũi xung kích của Trung đoàn 88, Đại đoàn 308, đánh vào từ hướng Đông Bắc.

Pháp dùng pháo binh và không quân đánh trả quyết liệt. Một tiểu đoàn bộ binh và 5 xe tăng từ Mường Thanh ra phản kích.

Là cứ điểm duy nhất còn lại ở phía bắc, Bản Kéo rơi vào thế cô lập. Nhận thấy có thể dùng đòn tâm lý, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, rải truyền đơn, gọi loa vận động lính Thái "trở về với tổ quốc".
15h ngày 17/3, lính viễn chinh Pháp ra hàng. Việt Minh làm chủ 3 cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo.

Sau 5 ngày, quân đội Việt Nam thành công chiếm trung tâm đề kháng mạnh nhất là Him Lam và Độc Lập, bức hàng Bản Kéo. Việt Minh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn tinh nhuệ, làm tan rã một tiểu đoàn và ba đại đội nguỵ Thái, loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 lính Pháp, bắn rơi 12 máy bay.

"Trước đây ta cho rằng có thể thắng trận Điện Biên Phủ, nhưng qua những ngày đầy tai hoạ, mọi cơ may để thành công đã không còn nữa", Nava viết trong hồi ký Thời điểm của những sự thật.

Sau khi tiêu diệt 6 trên 49 cứ điểm của Pháp, quân Việt Minh đặt mục tiêu đợt hai là tiến vào phân khu Trung tâm, đánh chiếm các cao điểm phía đông và sân bay Mường Thanh. Từ đó, Việt Minh siết chặt vòng vây, hạn chế thấp nhất khả năng tiếp tế, tiếp viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây là giai đoạn dài nhất, ác liệt và mang tính quyết định.

Khu Trung tâm nằm trên dãy đồi phía đông cánh đồng Mường Thanh, có 5 cụm cứ điểm với 10.000 quân. Sau thất bại đợt đầu, tướng Nava vội vã tăng viện cho Điện Biên Phủ hai tiểu đoàn dù. Việc tổ chức phòng ngự cũng được củng cố lại. Trong diện tích khoảng 2,5 km2, quân đội Pháp đặt 12 khẩu pháo 105 mm, 4 khẩu 155 mm, 24 khẩu cối 120 mm và 81 mm, dự trữ khoảng 100.000 viên đạn.

Để chiến đấu với binh lực mạnh của Pháp, nhiệm vụ quan trọng trước mắt là phát triển trận địa bao vây, tấn công. Lần này, quy mô hệ thống đường hào được mở rộng hơn. Đường hào trục bao quanh toàn bộ trận địa của Pháp ở phân khu Trung tâm. Đường hào bộ binh chạy từ vị trí trú quân của các đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng, cắt ngang hào trục, tiến vào những mục tiêu ta định tiêu diệt.

"Thời gian đào hào cũng là thời gian chúng tôi chiến đấu. Khi quân Pháp ra lấp trận địa của ta, anh em lại đào lại, đồng thời bố trí quân đánh trả. Nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh khi trên tay vẫn còn cầm cuốc, xẻng", cựu binh Phạm Bá Miều, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316, kể lại. Để bảo vệ trận địa, các đơn vị bộ binh cũng chuyển ra ở ngay những đường hào mới đào xong.

Hệ thống giao thông hào tiến công và bao vây của Việt Minh nhích dần, luồn qua dây thép gai, tạo thành những "vòng vây lửa", từng bước siết chặt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Pháp nắm rõ tiến độ đào hào của Việt Minh thông qua những bức không ảnh được chụp hàng ngày, nhưng thất bại trong việc ngăn chặn.

Cuối tháng 3, 100 km đường hào của quân Việt Minh hình thành sau 10 ngày, các chiến hào bò đến chân cứ điểm của Pháp. Phân khu nam Hồng Cúm bị cắt hoàn toàn khỏi Trung tâm. Quân đội Việt Nam sẵn sàng cho đợt tấn công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm "bất khả xâm phạm".

17h, pháo binh khai hoả từ các hướng vào ngọn đồi phía đông, áp chế quân viễn chinh Pháp, dọn đường cho bộ binh tiến vào một giờ sau đó. Mục tiêu trước hết là các đồi C1, C2, A1, D1, E. Các đại đoàn chủ lực 312, 316, 308, 304 đồng loạt tiến công vào từ các hướng.

20h, quân Việt Minh chiếm thành công các đồi C1, D1, và E, mở đường tiến vào C2. Tuy nhiên, đối phương dùng hoả lực tiến công bít cửa mở, cắt đứt lực lượng của Việt Minh. Quân Việt Minh thất bại chiếm đồi C2, hai tiểu đội hy sinh. Tại đồi A1, quân Việt Minh và Pháp giằng co đến quá nửa đêm, mỗi bên chiếm nửa đồi.

Quân Việt Minh chiếm được 2/3 vị trí đồi A1. Pháp tăng cường lực lượng phản kích. Hai bên giằng co trên phần lớn trận địa. Đến đêm, quân đội Việt Nam tiếp tục tấn công và kéo dài đến hết ngày 4/4 nhưng không thể dứt điểm, phải ngừng chiến đấu. Từ phía tây bắc, mũi tiến công của Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, đánh lấn tiêu diệt cứ điểm 106, tiến vào uy hiếp sân bay Mường Thanh.

Việt Minh làm chủ các cứ điểm E, D1, C1, 106 và 311, đưa trận địa tiến công và bao vây sâu hơn, nhưng chưa chiếm được A1, C2 ở phía Đông sông Nậm Rốm và cứ điểm 105 ở phía Bắc sân bay.
Đến ngày 8/4, quân Việt Nam đã tiêu diệt khoảng 5.000 lính viễn chinh Pháp. Do được tăng viện, tập đoàn cứ điểm vẫn duy trì khoảng 10.000 quân. Nhiệm vụ trước mắt là phải cắt đứt ngay sân bay Mường Thanh - "dạ dày" của chiến dịch.

Pháp được tăng viện thêm một tiểu đoàn dù từ Hà Nội, tiến hành phản kích vào cứ điểm C1. Quân Việt Minh duy trì chiến đấu nhằm giữ "bàn đạp" cho đợt tiến công cuối cùng. Trận đánh diễn ra trong 4 ngày đêm, bộ đội giữ nửa phía đông, đối phương chiếm nửa phía tây cứ điểm.

Chiến hào của Đại đoàn 312 và Đại đoàn 308 nối liền nhau ở giữa sân bay Mường Thanh, cắt đôi đường hạ - cất cánh. Mục tiêu là chiếm cứ điểm 105, tiến đến vô hiệu hoá sân bay. Để bảo vệ "dạ dày" chiến dịch, Pháp điều hai trung đội bộ binh và hai xe tăng, cùng một trung đội lê dương từ khu Trung tâm tiến ra, dưới sự yểm hộ của pháo binh, lấp các chiến hào.

Quân đội Việt Nam làm chủ trận địa tại sân bay Mường Thanh và cứ điểm 105, đánh lui nhiều đợt xung phong của đối phương. Pháp dùng hai tiểu đoàn bộ binh và 5 xe tăng, cố gắng đánh bật quân Việt Minh khỏi sân bay, nhưng thất bại.

Sân bay Mường Thanh hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh. Phạm vi chiếm đóng của quân Pháp thu hẹp còn 2 km2. Khu Trung tâm phòng ngự nằm trong tầm bắn của hỏa lực quân Việt Minh.

Sau gần một tháng chiến đấu, 2 trên 5 điểm cao quan trọng phía đông - D1 và E - nằm trong tay quân đội Việt Nam. Tuy đánh bại hơn 2.500 lính viễn chinh Pháp, lực lượng cũng bị tiêu hao, nhất là hai Trung đoàn 174, 102.
Mất sân bay, Pháp rơi vào tình thế thiếu thốn lương thực, đạn dược, thuốc men…

Sau hai đợt thua, Bộ chỉ huy chiến dịch của Pháp ra sức trấn an quân lính trên mặt trận. Nhận thấy Điện Biên Phủ sắp vào mùa mưa, tướng De Castries chủ trương duy trì thế giằng co đến giữa tháng 5, hy vọng thời tiết sẽ gây khó cho trận địa chiến hào và đường vận chuyển của quân Việt Minh. Khi đó, đối phương sẽ tăng máy bay bắn phá quanh căn cứ và chặn đường tiếp tế.

Trong khi đó, quân đội Việt Nam muốn nhanh chóng kết thúc trận chiến trước mùa mưa. Tướng Giáp đặt mục tiêu giải quyết "con nhím" Điện Biên Phủ trước ngày mở màn Hội nghị Geneve để giúp phái đoàn Việt Nam xuất hiện trong tư cách người chiến thắng. Đợt tấn công cuối là cuộc chạy đua về thời gian.

Nhiệm vụ đợt ba là tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ. Lần này, đích đến của những đường hào là Sở Chỉ huy De Castries.

17h ngày 1/5/1954, tất cả các cỡ pháo của Việt Minh nhả đạn vào tập đoàn cứ điểm. Đợt tấn công thứ 3 bắt đầu.

Sau đợt pháo mở đường gần một giờ, các đơn vị đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí. Trung đoàn 98, Đại đoàn 316, tiêu diệt gọn một đại đội thuộc Tiểu đoàn 1 dù lê dương, làm chủ toàn cứ điểm C1. Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, tấn công hai cứ điểm 505 và 505A nằm dưới chân dãy đồi phía Đông, tả ngạn sông Nậm Rốm, tiêu diệt một đại đội Algeria, làm chủ trận địa.
Ở phân khu Nam, Trung đoàn 57, Đại đoàn 304, tiêu diệt một bộ phận lính Pháp ở đông bắc Hồng Cúm.

Ở phía tây, quân Việt Nam tiêu diệt thêm cứ điểm 311B, siết chặt vòng vây vào khu Trung tâm. Trận địa của Việt Minh chỉ còn cách Sở Chỉ huy Pháp 300 m.
Phía đông, sau 4 lần tấn công, quân Việt Minh vẫn chưa thể chiếm trọn đồi A1. Nhằm chia cắt thành lũy cuối cùng của Điện Biên Phủ, bộ đội đào hầm ngầm dẫn lên đỉnh đồi để đặt một khối chất nổ 1.000 kg.

20h30, quân Việt Nam kích nổ bộc phá hầm ngầm cứ điểm A1, thổi bay lô cốt bên trên, cuốn theo phần lớn Đại đội dù 2 của đối phương đóng tại đây. Trung đoàn 174, Đại đội 316 từ ba hướng đánh vào. Cùng lúc đó, các cứ điểm C2, 506 và 310F cũng lần lượt bị quân Việt Minh tấn công.

Quân Việt Nam chiếm hết các điểm cao quan trọng ở phía đông, mở đường tiến qua cầu Mường Thanh vào Sở Chỉ huy. Hoả lực của quân Việt Minh kiểm soát toàn trận địa, Pháp co hẹp phạm vi chiếm đóng mỗi chiều từ 1.000 đến 700 m. Bộ Chỉ huy Việt Minh ra lệnh chuyển sang tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm.
16h, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, vượt qua cầu Mường Thanh, chọc thẳng vào Sở Chỉ huy và bắt sống tướng De Castries. Trong khi đó, Đại đoàn 304 tấn công phân khu Nam.
22h, quân Việt Minh bao vây và bắt 2.000 quân viễn chinh Pháp, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

Tập đoàn cứ điểm kiên cố bị hạ gục, kế hoạch Nava chính thức phá sản khiến giới chức nước này choáng váng.

Hơn 10.000 lính viễn chinh Pháp bị bắt, trong đó, khoảng 1.000 thương binh nặng nằm chồng chất dưới các căn hầm bệnh viện suốt hai tháng trận đánh diễn ra. Khi tiếng súng kết thúc, quân y Việt Minh đưa họ lên mặt đất, cứu chữa và trao trả cho Pháp.

Một ngày sau khi Pháp bại trận, 8/5/1954, Hội nghị Geneve khai mạc. Tại đây, Pháp buộc phải công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, chấm dứt ách thống trị kéo dài gần một thế kỷ.

Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa với đội quân nhỏ bé, trang bị thô sơ đã đánh bại đế quốc thực dân hùng mạnh.

Quân đội Nhân dân Việt Nam ăn mừng trên nóc hầm tướng De Castries khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, chiều 7/5/1954. Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam

Nội dung: Mây Trinh - Phùng Tiên

Đồ họa: Khánh Hoàng - Thanh Hạ

Bài viết sử dụng tư liệu từ:

- Việc phân chia cụm cứ điểm Him Lam, Bản Kéo của Pháp tại Điện Biên Phủ có sự khác biệt trong các tài liệu lịch sử. Cách chia trong bài viết này dựa trên sách Điện Biên Phủ 13/3-7/5/1954 (Ivan Cadeau) và tư vấn của ông Lê Thanh Bài, Phó viện trưởng Lịch sử quân sự, Bộ Tổng tham mưu.

- Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử (Hồi ức đại tướng Võ Nguyên Giáp)

- Võ Nguyên Giáp - Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh

- Thời điểm của những sự thật (Hồi ký của Henri Navarre)

- The Battles of Dien Bien Phu (Jules Roy)

- The road to Dien Bien Phu (Christopher Goscha)

- Hell in a very small place; the siege of Dien Bien Phu (Bernard B.Fall)

- The Last Valley: Dien Bien Phu and the French Defeat in Vietnam (Martin Windrow)

Về ảnh trong bài:

- Ảnh các chỉ huy của Pháp và Việt Nam: Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái); Tư liệu gia đình cung cấp (Thiếu tướng Đặng Kim Giang và Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm); Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Henri Navarre); Các cơ quan truyền thông của Pháp (sĩ quan Jean Pouget và tác giả Jules Roy)

- Ảnh vũ khí và máy bay quân sự được tổng hợp từ các nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, và các trang thông tin quân sự của Pháp, Mỹ

- Diễn biến trận đánh trong bài được phác thảo dựa trên bản đồ trong sách Traitez à tout (Jean Julien Fonde); Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử (Võ Nguyên Giáp); và Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ (nhiều tác giả).