Trên thực tế, Hiến pháp Mỹ không quy định cụ thể thẩm phán tối cao, vị trí quyền lực bậc nhất trong hệ thống tư pháp Mỹ, có nhiệm kỳ trọn đời. Theo điều III Hiến pháp, thẩm phán thuộc hệ thống tòa liên bang, gồm cả tòa tối cao và tòa cấp dưới, "sẽ giữ chức chừng nào có ứng xử tốt".
Như vậy, về lý thuyết, thẩm phán tối cao không có giới hạn nhiệm kỳ nhưng có thể mất chức nếu không thỏa mãn điều kiện "ứng xử tốt". Tuy vậy trên thực tế, cho tới nay chỉ 15 thẩm phán liên bang ở các cấp tòa dưới bị Quốc hội luận tội, trong đó chỉ 8 người bị bãi nhiệm.
Thẩm phán tối cao liên bang duy nhất mà Quốc hội từng cố luận tội là Samuel Chase, người thường công khai phản đối chính sách của tổng thống Thomas Jefferson. Năm 1804, Chase bị Hạ viện bỏ phiếu luận tội vì thúc đẩy tư tưởng chính trị trong cương vị thẩm phán. Nhưng trước Thượng viện, Chase được tuyên vô tội và tiếp tục nhiệm kỳ.
Mục đích của việc trao nhiệm kỳ trọn đời cho thẩm phán là để ngăn tòa án cao nhất của Mỹ xảy ra tranh đấu đảng phái. Tòa tối cao có vai trò là đối trọng với quyền lực của Quốc hội và tổng thống. Vì thế, nhiệm kỳ suốt đời sẽ giúp các thẩm phán được miễn nhiễm trước áp lực chính trị, từ đó giúp tòa án tối cao trở thành nhánh quyền lực độc lập thực sự.
Với nhiệm kỳ suốt đời, thẩm phán tối cao không thể bị bãi nhiệm khi ra phán quyết bất lợi nên trên lý thuyết, họ có thể tập trung vào lĩnh vực pháp luật thay vì chính trị. Ban đầu, thẩm phán có thể được đề cử vì được tổng thống cho là đồng minh chính trị. Nhưng khi đã được bổ nhiệm, thẩm phán sẽ không thể bị bãi nhiệm kể cả khi có chuyển biến tư tưởng. Nhiều thẩm phán trên thực tế đã nghiêng dần theo tư tưởng cánh tả khi tuổi tác càng cao, theo FiveThirtyEight.
Theo Alexander Hamilton, một trong những nhà lập quốc Mỹ, việc không có hạn chế nhiệm kỳ được cho là "cách thức tốt nhất" để đảm bảo hệ thống tư pháp được vững vàng, liêm khiết, và công tâm. Nhánh tư pháp luôn có nguy cơ bị các nhánh khác lấn át hoặc tác động, nên Hamilton cho rằng nhiệm kỳ trọn đời sẽ giúp thẩm phán tập trung vào các vấn đề của Hiến pháp mà không phải hạ mình trước ý muốn của tổng thống, Quốc hội, hoặc công chúng.
Tuy nhiệm kỳ trọn đời cho thẩm phán tối cao là truyền thống lâu năm của Mỹ, cách tiếp cận này không phải quy chuẩn ở các nước khác. Nhiều quốc gia trên thế giới đặt ra tuổi nghỉ hưu bắt buộc hoặc giới hạn nhiệm kỳ đối với thẩm phán tối cao.
Ví dụ, thẩm phán tòa tối cao Anh phải nghỉ hưu bắt buộc ở tuổi 70, hoặc ở tuổi 75 nếu được bổ nhiệm trước năm 1995. Tương tự, tuổi nghỉ hưu của thẩm phán tối cao tại Australia và Canada là 75 tuổi, trong khi thẩm phán tối cao tại Ấn Độ phải nghỉ hưu ở tuổi 65.
Hiện, nhiệm kỳ trung bình của thẩm phán tòa tối cao liên bang Mỹ là 16 năm. Do tuổi thọ con người ngày càng cao, thẩm phán được bổ nhiệm vào tòa tối cao trong 100 năm tiếp theo ước tính sẽ giữ chức trung bình 35 năm, theo công ty tư vấn quản lý Oliver Wyman (Mỹ).
Trước xu hướng này, một số học giả đặt vấn đề liệu nhiệm kỳ suốt đời cho thẩm phán tối cao liên bang có còn hợp lý, vì khái niệm "suốt đời" đã thay đổi rất nhiều từ khi Hiến pháp Mỹ được soạn thảo.
Một số người cho rằng việc hạn chế nhiệm kỳ sẽ giúp chống lại sự bất bình đẳng giữa hai phe bảo thủ và tự do tại tòa tối cao. Ví dụ, sau cái chết vào tháng 9 của Ruth Bader Ginsburg, nữ thẩm phán tối cao theo chủ nghĩa tự do, tổng thống Trump đã đề cử nữ thẩm phán Amy Coney Barrett vì tin rằng sẽ làm thế đa số của phe bảo thủ trong tòa tối cao được tăng cường với tỷ lệ 6-3.
Theo những người ủng hộ, việc hạn chế nhiệm kỳ sẽ ngăn tổng thống đề cử ứng viên chỉ vì tình cờ có thẩm phán tối cao qua đời trong nhiệm kỳ của mình. Đồng thời, tầm hệ trọng của việc đề cử thẩm phán tối cao trong mắt hai đảng sẽ giảm xuống, từ đó có thể khiến tổng thống và Quốc hội thỏa hiệp nhiều hơn.
Dù sao đi nữa, việc thay đổi nhiệm kỳ thẩm phán tối cao rất có thể sẽ cần tới sửa đổi Hiến pháp trong khi đây là điều không thể xảy ra trong ngày một ngày hai. Vị trí thẩm phán tòa tối cao liên bang trong tương lai vẫn sẽ có nhiệm kỳ trọn đời.
Với thẩm phán và luật sư tại Mỹ, không có công việc pháp lý nào đem lại uy danh hơn vị trí thẩm phán tòa tối cao liên bang. 9 thẩm phán của tòa tối cao đều do Tổng thống đề cử và Thượng viện phê chuẩn.
Hàng năm, 9 thẩm phán sẽ cùng bỏ phiếu và ra quyết định về các vấn đề pháp lý quan trọng trong nước. Phán quyết của tòa tối cao trở thành án lệ có tính cột mốc và ràng buộc với quyết định của tòa cấp dưới.
Quốc Đạt (Theo FiveThirtyEight, Oliver Wyman, NPR)