Theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Ví dụ 1: A bị một nhóm đối tượng hành hung nên bỏ chạy; tuy nhiên, nhóm này vẫn đuổi theo để truy sát đến cùng. Dù kêu cứu nhưng không có ai giúp đỡ, khi chạy vào đường cụt cận kề với cái chết, A không còn cách nào khác ngoài việc chống trả để thoát thân, làm chết kẻ đánh mình. Trong trường hợp này, có thể coi A là phòng vệ chính đáng, không phải là tội phạm.
Theo khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Ví dụ 2: B cầm gậy chặn đánh C, C đỡ được và giằng gậy từ B. Thay vì chỉ cầm gậy đánh vào tay hoặc chân B để dừng việc tấn công, C đã đánh thẳng vào đầu B với ý định triệt hạ. Trong trường hợp này, C có thể bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng làm chết người có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong hai tội danh: Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng dẫn đến hậu quả chết người (Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Căn cứ Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), trường hợp dưới 18 tuổi nhưng đã đủ 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội trên. Người chưa đủ 16 tuổi thì không chịu trách nhiệm hình sự về các tội này.
Lưu ý: Căn cứ khoản 2 Điều 100 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), trường hợp áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ với người dưới 18 tuổi phạm tội thì không được quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Căn cứ khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
Luật sư Phạm Thanh Hữu
Đoàn luật sư TP HCM