G21 muốn các nước giàu xoá bỏ hệ thống trợ cấp, trong khi EU và Mỹ yêu cầu họ phải tiến hành cải cách lập pháp và thương mại để đổi lại bất cứ nhượng bộ nào.
Robert Zoellick, đại diện thương mại Mỹ, và Pascal Lamy, đại diện Liên minh châu Âu, đều tới dự cuộc họp quan trọng tuần này của WTO ở Cancún, Mexico với một chặng đường dài ở phía trước. Vòng thảo luận thương mại toàn cầu đầy tham vọng bắt đầu năm 2001, ở Doha, mục đích bàn về tự do buôn bán nông sản, giảm thuế đối với các mặt hàng công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu tài sản trí tuệ và mở rộng quyền kiểm soát của WTO đối với đầu tư nước ngoài, chính sách cạnh tranh... Cả ông Zoellick và Lamy đều khẳng định họ sẽ kết thúc vòng đàm phán lần này đúng kế hoạch, truớc tháng 1/2005.
Mỹ đã ngỏ ý cho phép buôn bán tự do tất cả các loại hàng hoá trước năm 2015 và giảm 76% thuế nông nghiệp trong vòng 5 năm tới. Nhưng ông Zoellick cũng hiểu được một thực tế chính trị. Trừ phi các nước khác cũng cắt giảm thuế ồ ạt, ông sẽ không nhận được sự ủng hộ ở nước nhà đối với việc cắt giảm trợ cấp cho nông nghiệp Mỹ. Còn nếu thương thuyết không tiến triển, Washington chỉ việc lùi lại phía sau. Riêng năm ngoái, nước này đã đưa ra một dự luật, dự kiến tăng 82 tỷ USD trợ cấp nông nghiệp trong thập kỷ tới.
Ông Lamy, về phần mình, mang nhiệm vụ khó khăn là bảo vệ một trong những chính sách nông nghiệp phi tự do nhất thế giới. EU trợ giá nông nghiệp nhiều đến mức nông dân các nước thành viên sản xuất quá nhu cầu của người tiêu dùng. Trong khu vực thì không còn nhu cầu, bán bên ngoài EU thì quá đắt đỏ, vậy là lượng hàng thừa được đẩy ra thị trường thế giới cùng 2,5 tỷ USD trợ cấp xuất khẩu mỗi năm. Nói cách khác, sau khi đã trợ giá cho nông dân, EU lại trợ giá cho số người tiêu dùng còn lại của thế giới, giúp đẩy giá sản phẩm thấp xuống trên thị trường. Không dừng ở đó, Liên minh châu Âu còn áp dụng thuế nhập khẩu để ngăn cản các nông dân ở các nước thuộc khu vực chi phí sản xuất rẻ cạnh tranh với hàng hoá của mình.
Mặc dù một số thành viên (như Anh) tỏ ra muốn cải cách chính sách nông nghiệp hơn các nước khác (như Pháp), Liên minh châu Âu nhìn chung rất tích cực bảo vệ chính sách này. Hồi tháng 6, họ đưa ra đề xuất trả tiền trực tiếp cho các nông dân thay vì trợ giá. Nhưng các thành viên khác của WTO vẫn không bằng lòng. Mỹ và EU sau đó cho biết sẽ dần từng bước xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu những mặt hàng có tầm quan trọng chiến lược đối với các nước nghèo (nhưng không nói cụ thể là các hàng nào), bỏ dần các biện pháp trợ giá và hạn chế mức trợ cấp trực tiếp cho các nông dân ở 5% chi phí sản xuất. Về thuế nhập khẩu, Mỹ và EU chấp nhận giảm thuế, nhưng không nói rõ là bao nhiêu.
Ai sẽ thu lợi nhiều nhất nếu chủ trương bảo hộ chính sách nông nghiệp của EU không còn nữa? Chính là EU. Cải cách sẽ hạ giá thành lương thực, khiến một số nông dân phá sản nhưng lại tiết kiệm cho người tiêu dùng hàng tỷ euro và tiết kiệm được tiền của những người đóng thuế. Ích lợi không dừng ở đó. Nếu EU xoá bỏ trợ cấp những mặt hàng là đối tượng xuất khẩu của những nước nghèo, giá của chúng sẽ tăng trên thị trường quốc tế. Điều này có lợi cho các nước xuất khẩu nông nghiệp lớn, chẳng hạn Argentina và Brazil. Xét về khía cạnh ngược lại, cũng sẽ có nhiều quốc gia thiệt thòi. Theo một một nhà kinh tế thuộc Đại học Maryland (Mỹ), 85 quốc gia đang phát triển là những nước nhập khẩu nông sản. Tăng giá các mặt hàng đó trên thị trường quốc tế sẽ khiến họ gặp khó khăn.
Trên thực tế, các hàng rào đối với hàng hoá tiêu dùng gây thiệt hại hơn nhiều những hàng rào nông nghiệp. Ngân hàng Thế giới tính rằng thuế nhập khẩu làm giảm 5% thu nhập từ nông nghiệp của các nước, trong khi tổn hại tới 22% doanh thu từ lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Rất nhiều nước giàu lên nhờ xuất khẩu hàng tiêu dùng trên thị trường quốc tế. Năm 1980, Ngân hàng Thế giới ước tính rằng loại hàng hoá này chiếm 20% các mặt hàng xuất khẩu của những nước nghèo. Hiện chúng chiếm 80% và nhiều quốc gia cũng không còn nghèo nữa. Ngoại trừ thuế thép của Mỹ, các nước giàu thường áp dụng mức thuế thấp đối với các lĩnh vực sản xuất của nhau nhưng lại đánh thuế các nước nghèo cao gấp 5 lần. Ngành dệt cũng bị cản trở bởi chính sách quota. Thêm vào đó, các nhà xuất khẩu trong tất cả những lĩnh vực công nghiệp đều phải đương đầu với các biện pháp chống phá giá, vũ khí của nhà bảo hộ. Mỹ và EU đã áp dụng không dưới 559 lần biện pháp này từ năm 1995 đến 2002.
Arun Jaitley, Bộ trưởng Thương mại Ấn Độ, cáo buộc các nước giàu thương thuyết bằng “một thanh kiếm và một lá khiên”. Tuy nhiên, sự miêu tả này cũng phù hợp với chính Ấn Độ. Nước này đòi hỏi EU và Mỹ dỡ bỏ hệ thống bảo hộ của mình, trong khi 7 năm qua, họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác.
Tuy nhiên, ngay cả khi những nước nghèo chấp nhận tất các biện pháp của WTO, các nước giàu vẫn chưa hài lòng. EU còn muốn quy định về tự do hoá của Tổ chức Thương mại Thế giới mở rộng sang một loạt các lĩnh vực mới: đầu tư, chính sách cạnh tranh, hoạt động mua sắm của chính phủ và thủ tục hải quan. Áp dụng và theo sát những việc này rất khó khăn và tốn kém đối với các nước nghèo. Tệ hơn nữa, nếu đã cam kết mà không thực hiện được, họ sẽ chịu các biện pháp trừng phạt thương mại. Cuộc tranh cãi vì vậy sẽ còn kéo dài và có lẽ chưa thể tìm được câu trả lời trong những ngày sắp tới.
Minh Châu (theo Economist)