Năm ấy, tôi thi tốt nghiệp cấp II. Điểm thi không cao. Tôi cũng không đỗ vào chuyên văn ở ngôi trường mong muốn, trong khi bạn bè ai cũng đỗ vào các trường tốp đầu.
Xấu hổ với bạn bè, mặc cảm với bố mẹ, tôi quyết định tự kết thúc cuộc đời bằng 50 viên thuốc ngủ.
Uống xong, tôi rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê tức thời. Tôi vẫn ý thức được xung quanh nhưng không thể tự làm mình tỉnh lại. Sợ hãi, tôi gọi bố và may thay, ông kịp đưa tôi vào bệnh viện. Lúc bác sĩ rửa ruột, tôi đã hôn mê hoàn toàn. Tỉnh dậy, tôi thấy mẹ và em trai ngồi cạnh.
Không ít người giống tôi, chúng tôi quyết định kết thúc ở vào lứa tuổi còn rất trẻ. Cho dù nguyên nhân "trực tiếp" dẫn tới việc này là chuyện tình cảm không thành, chuyện học hành thất bại hay bất kỳ thất vọng nào, đó không bao giờ là nguyên nhân sâu xa. Chính tôi lúc đó cũng không hiểu tại sao mình làm vậy. Tôi chỉ luôn cảm thấy mình là người vô dụng, người bỏ đi. Tôi cảm thấy tôi không đáng sống.
Rất lâu sau này, khi đã ngoài ba mươi, nhờ bác sĩ, tôi mới đủ chín chắn để lý giải câu chuyện của chính mình năm xưa.
Khi một người quyết định tìm tới sự kết liễu, ai cũng nghĩ đó là vấn đề tâm lý. Nhưng tại sao trong bao nhiêu người trẻ thất vọng về học hành hay tình cảm, chỉ có một thiểu số nghĩ tới việc hủy hoại bản thân? Con người có bản năng ham sống tự nhiên. Trái với quy luật đó, yếu tố bệnh lý cần được tính tới.
Từ khi còn là học sinh, tôi đã rất hay buồn. Nhà tôi ở khu vực Thành Công, Hà Nội. Tôi hay tự ra hồ Giảng Võ gần đó ngồi thẫn thờ nhiều giờ. Tôi thường trực cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống. Không cần tới khi có "nguyên nhân" là việc thi cử bất thành, nỗi u buồn đã ở sẵn trong tôi như vậy.
Nỗi u buồn này lớn dần lên theo năm tháng. Những đổ vỡ trong hôn nhân sau này khiến tôi rơi vào trầm cảm dai dẳng, nặng nề và đáng sợ. Một bác sĩ hàng đầu của bệnh viện tâm thần Bạch Mai đã lý giải, giúp tôi hiểu rằng những yếu tố tiêu cực bên ngoài tác động là nguyên nhân "ngoại sinh" của trầm cảm. Những gì có sẵn bên trong một tâm hồn, do di truyền hay bẩm sinh, là nguyên nhân "nội sinh".
Tư vấn của bác sĩ giúp tôi nhìn thấy chính mình năm xưa. Nỗi buồn ấy đã "nội sinh" sẵn bên trong tôi, khi tôi mới chỉ ở lứa tuổi cắp sách đến trường. Nỗi buồn "nội sinh" ấy chỉ chờ một tác động "ngoại sinh" để có thể biến thành những hành động không thể kiểm soát được bằng ý thức.
25% dân số từng mắc trầm cảm trong đời. Đó là số liệu chính thức từ Viện Sức khoẻ Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai. Những ca nặng nhất đều có yếu tố nội sinh rất mạnh, từ thơ ấu. Những ca tự tìm tới cái chết cũng có yếu tố nội sinh mạnh. Đó là lý do phụ huynh nên để ý đến con mình từ những điều nhỏ nhất. Những hiện tượng như u buồn thường xuyên, co mình vào bên trong, hạn chế giao tiếp, thường xuyên sợ hãi, hoảng loạn hay giận dữ bất thường đều có thể là biểu hiện của trầm cảm nội sinh.
Hàng ngày, trẻ đều phải rất đấu tranh để chịu đựng chính bản thân mình, chống lại những vực thẳm không đáy nuốt trọn tâm trí. Mỗi một sự việc dù nhỏ cũng sẽ như giọt nước tràn ly, người bệnh sẽ chảy lênh láng với những cảm xúc bị vỡ ra trong rối rắm và hỗn độn. Phê phán hay trách mắng nào từ cha mẹ đều có thể là "thảm họa" đối với trẻ có sẵn yếu tố trầm cảm. So sánh sự bất thường của trẻ với chúng bạn bình thường khác gây hậu quả rất nặng nề. Với người trầm cảm nội sinh, kích thích bên ngoài gây ra nỗi đau đớn gấp hàng chục lần người bình thường.
Cô độc cũng là cảm giác thường xuyên của trầm cảm nội sinh. Tôi luôn có cảm giác mình là người thừa từ khi còn rất nhỏ. Nỗi cô độc ấy ngày một lớn lên, trở thành nỗi sợ hãi, thậm chí hoảng loạn. Cha mẹ ham công tiếc việc bỏ trẻ ở lại với thế giới của riêng mình là nguy hiểm. Trẻ cần rất nhiều thời gian, cần gấp đôi, gấp ba so với bình thường.
Tôi từng viết rằng người trầm cảm như "một linh hồn đi lạc vào cõi u linh đầy giá buốt". Cảm giác đau đớn và đơn độc mà không ngòi bút nào có thể mô tả được. Trầm cảm là một căn bệnh nghiêm trọng, đòi hỏi người bên cạnh rất nhiều công sức và thời gian. Rất khó để hiểu được chính xác những gì người trầm cảm cảm thấy và trải qua, dù ở lứa tuổi nào. Người bên cạnh rất nên chấp nhận mức độ tình trạng của những người bệnh, để họ được giãi bày thay vì phán xét hay dạy bảo. Người thân có thể hướng họ đến những việc người bệnh yêu thích và có thể làm tốt nhất trong khả năng của mình.
"Ước gì con không sinh ra để không chịu khổ". Tôi nghe con trai 12 tuổi của mình nói câu ấy. Tôi thấy cháu có nhiều biểu hiện mắc trầm cảm nội sinh di truyền. Dù vẫn đang chật vật chiến đấu với căn bệnh dai dẳng này, tôi biết mình phải sống để nâng đỡ các con vượt qua. Tình cảm mà những người xung quanh có thể trao đi là phương thuốc tốt nhất dành cho chúng tôi, những người trầm cảm nội sinh từ thủa thiếu thời.
Dương Hương Trà