![]() |
Tiến sĩ Phạm Quang Dự. |
- Có đại biểu nói rằng, vì chậm tiến độ mà vốn đầu tư cho Dung Quất đã tăng thêm 200 triệu USD. Ông lý giải thế nào?
- Đại biểu có thể đã hiểu lầm. Dự án trước đây khi liên doanh, phía Nga khống chế quy mô chỉ 1,3 tỷ USD, trong khi ta lập dự án 1,5 tỷ. Nay liên doanh giải thể, ta tiếp quản nên quay lại quy mô đã dự tính, chứ không phải tốn thêm 200 triệu USD.
Về tiến độ, xét theo yêu cầu mà Quốc hội đề ra năm 1997 thì đúng là chậm. Nhưng có những nguyên nhân khách quan, như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, giá dầu thô lúc đó lại giảm, nên không có vốn triển khai dự án. Một vấn đề khác là ta liên tục thay đổi phương thức đầu tư, từ liên doanh với Nga, giậm chân tại chỗ mất 5 năm; rồi cuối năm 2002 chấm dứt liên doanh, quyết định tự huy động vốn đầu tư. Mọi việc đến nay làm lại từ đầu. Hơn nữa, đây là dự án lớn, ta chưa có kinh nghiệm nên lúng túng.
Nếu không có những chuyện trên, tôi đảm bảo là đúng năm 2003 ta đã có nhà máy lọc dầu đầu tiên. Nhưng cần lưu ý, như vậy thì phải liên doanh với Nga, và sẽ phải sản xuất ra xăng A83 và dầu diezen công nghiệp - loại trong nước cũng như khu vực gần như không còn sử dụng. Mỗi năm làm ra trên triệu tấn sản phẩm loại này mà không bán được, thì kể cả dự án hoàn tất đúng thời hạn, nhà máy vẫn phải đóng cửa.
- Tuy nhiên chậm tiến độ trong khi AFTA đang đến gần sẽ làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy lọc dầu. Tới đây Chính phủ sẽ làm gì để khắc phục?
- Chính phủ xác định đã chậm thì phải thay đổi công nghệ, đảm bảo sản phẩm ra đời là hiện đại, đủ sức cạnh tranh kể cả khi Việt Nam gia nhập AFTA vào 2006. Việc này, theo đúng trình tự, thủ tục, nhanh nhất 5-6 tháng nữa mới hoàn tất để ký hợp đồng với nhóm nhà thầu Technip Coflexip (Pháp). Sau đó, trong vòng 43 tháng, gói thầu số 1 - phần quan trọng nhất sẽ được triển khai, hoàn tất.
Với đặc điểm riêng của một nhà máy lọc dầu lớn như vậy, để đảm bảo hiệu quả hoạt động, còn cần cơ chế quản lý riêng. Chúng tôi đã ký hợp đồng để Công ty Stone & Webster (Anh) tư vấn giám sát suốt quá trình triển khai dự án cho đến khi đi vào hoạt động. Petrovietnam cũng đã đề xuất Chính phủ cho thuê người nước ngoài làm giám đốc nhà máy lọc dầu.
Chúng tôi dự báo dài hạn giá dầu thô là 20 USD/thùng (150 USD/tấn), và lấy làm đầu vào cho Dung Quất. Ở mức này, dự án không có hiệu quả kinh tế trực tiếp nhưng cũng không lỗ. Trong dự án Dung Quất, lợi ích lớn nhất là động lực phát triển kinh tế miền Trung.
- Một số đại biểu Quốc hội vẫn băn khoăn về vị trí xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 bởi liên quan đến chi phí vận chuyển xăng dầu. Ý kiến của ông thế nào?
- Không nên đặt lại vấn đề địa điểm của nhà máy. Bởi trong chiến lược phát triển năng lượng đã xác định rõ nước ta phải có ít nhất 3 nhà máy lọc dầu ở 3 miền. Chỉ vậy mới giảm được giá thành vận chuyển. Có thể năm sau, Chính phủ sẽ trình Quốc hội xem xét dự án lọc dầu số 2 ở Nghi Sơn, Thanh Hóa. Xa hơn, có thể xây dựng nhà máy ở Long Sơn. Chiến lược như vậy nhưng tính khả thi hay không còn phụ thuộc khả năng huy động vốn, bởi tổng đầu tư rất lớn, trên dưới 5 tỷ USD.
- Vấn đề rắc rối trước đây trong đàm phán với nhà thầu là khâu nhập khẩu, phân phối sản phẩm dầu khí. Việc này tới đây được giải quyết thế nào?
- Đến năm 2007, khi nhà máy vận hành, sản phẩm cũng chỉ đủ đáp ứng một nửa nhu cầu, do đó ta vẫn phải tiếp tục nhập khẩu xăng dầu. Việc này vẫn do các doanh nghiệp trong nước đảm trách. Trong kinh doanh xăng dầu trên thế giới, giá bán tới người tiêu dùng luôn gấp đôi giá xuất tại nhà máy. Do đó không tội gì chia sẻ phần lợi này cho các công ty nước ngoài. Chính phủ chủ trương tiếp tục quản lý chặt chẽ phần phân phối sản phẩm dầu khí, chỉ để doanh nghiệp trong nước tham gia.
Nghĩa Nhân