Judith Miller. |
Trông giống như một thứ phấn rôm trẻ em. Một lớp bột màu trắng bệnh viện, mùi dịu, bay vương vất lên mặt, áo len và tay tôi. Những hạt nặng thì sà xuống sàn nhà, rơi trên quần và giày. Một trò bịp bệnh than rồi, tôi nghĩ.
Tâm trí tôi đang còn để tâm đến việc khác. Ngồi ở bàn làm việc toà soạn New York Times, tôi đang mải nghĩ về chuyện có lẽ sẽ là tin top của ngày hôm đó: Nỗ lực của chính quyền Bush trong việc phong toả tài sản của những nhóm và cá nhân mà họ cho là ủng hộ khủng bố. Đã 9h15 phút sáng. Bộ trưởng Ngân khố Paul O’Neil sẽ bắt đầu bàn về danh sách bổ sung 39 nhà tài trợ khủng bố. Tôi đang cầm điện thoại, nói chuyện với Jeff Gerth, đồng nghiệp và bạn tôi, về bài báo chúng tôi sẽ viết. Trong lúc nói chuyện, tôi bắt đầu lục đống thư chưa mở để cạnh máy tính của mình.
Tôi đã nhận được nhiều thư kể từ ngày 11/9. Một số khen ngợi, số khác thì tức giận vì chính phủ đã không bảo vệ được người Mỹ trước những kẻ khủng bố. Nhưng hầu hết độc giả đều muốn biết làm thế nào để bảo vệ bản thân và gia đình khỏi nạn khủng bố sinh học. Họ đã nhìn thấy tôi và hai đồng nghiệp phát biểu trên truyền hình về quyển sách của chúng tôi, cuốn Vi trùng: Vũ khí sinh học và cuộc chiến bí mật của Mỹ.
Nếu lúc ấy tôi không xao lãng, có lẽ tôi đã không mở bức thư phong bì trắng, không có địa chỉ người gửi, dấu bưu điện ở St Petersburg, Florida. Những người cấp tin đã nói nhiều với tôi về mối đe doạ của bệnh than, kể từ khi một người chết vì hít phải vi khuẩn bệnh tại một văn phòng báo chí ở Boca Raton, Florida, không xa nơi những kẻ không tặc ngày 11/9 học lái máy bay là bao.
Nhưng lúc ấy tôi không nghĩ gì cả. Tôi đang vội vã, chỉ chúi đầu vào công việc của mình và không để ý tới bức thư.
Lớp bột khiến tôi bừng tỉnh. Ngay tức thì, tôi nhờ các phóng viên và biên tập viên gọi điện cho lực lượng an ninh. Tôi sợ đụng vào máy điện thoại.
Trông họ hốt hoảng. Không sao đâu, tôi nói với họ. Có lẽ chỉ là trò giả mạo thôi.
Đúng lúc đó thì điện thoại reo. Theo bản năng, tôi ấn tai nghe. Một người cung cấp tin. Anh ta hỏi tôi đã hay chuyện về người trợ lý của Tom Brokaw hay chưa? Cô ấy đã bị nhiễm bệnh than vì đụng phải thứ bột trong bức thư mở ra hồi cuối tháng 9. Phong bì này có dấu bưu điện Florida.
Bình tĩnh đi nào, tôi tự nhủ. Một trò bịp thôi. Tới lúc các nhân viên an ninh của New York Times đến, tôi yên lòng khi thấy họ đang cầm theo một túi đựng rác bằng nhựa và tay đeo găng. Khi tôi rời bàn làm việc, họ thận trọng bỏ bức thư vào phong bì, cùng cả găng tay vào chiếc túi và niêm phong lại. Hoàn hảo, tôi nghĩ.
Lúc rửa tay và phủi hết bột còn bám trên quần và giày, tôi nhớ tới Bill Patrick, người bạn và là quân sư về vũ khí sinh học của tôi. Ông ấy chả từng nói là: bệnh than rất khó sử dụng làm vũ khí đấy hay sao. Việc tạo ra một bào tử nhỏ đủ để làm phổi nhiễm bệnh là cả một kỹ xảo phi thường.
Bill đã có kinh nghiệm trực tiếp. Ông từng tìm cách tạo ra những bào tử như vậy những năm 50 và 60, khi còn là một nhà khoa học cấp cao trong chương trình vũ khí sinh học của Mỹ. Tổng thống Richard Nixon đã đơn phương chấm dứt chương trình này vào năm 1969.
Cấy bào tử bệnh than có khả năng xâm nhập qua da thì không khó bằng, nhưng cũng chả dễ dàng chút nào.
Vì vậy, Bill rất lo ngại, khi ông ấy nghe tin về vụ Florida. Những kẻ làm vụ này đã có khả năng tạo ra bào tử bệnh than có kích thước chỉ từ 1- 5 micromet, có khả năng vào đến phổi.
Bill cho rằng trong các vụ còn lại, một loại bào tử lớn hơn đã được trộn với phấn rôm trẻ em hay một chất khác để nguỵ trang căn bệnh chết người bằng một thứ mùi quen thuộc. Bệnh than thì không có mùi. Và gần như không bao giờ có màu trắng.
Tôi vốn không xa lạ gì với bệnh than. Bill Patrick từng chứng minh vi khuẩn bệnh than có thể được tuồn dễ dàng, ngay trước mũi các nhân viên an ninh sân bay như thế nào. Kể từ năm 1998, tôi đã đi thăm nhiều phòng thí nghiệm và xí nghiệp thuộc mạng lưới nghiên cứu vũ khí sinh học của Liên Xô cũ. Tôi đã quen với thứ mùi kinh khủng ở những nơi như thế - một thứ hỗn hợp của chất tẩy, bụi, phân súc vật - thứ mùi của tử thần.
Công trình này làm tôi kinh hãi. Nhưng những gì tôi đang nghiên cứu vẫn còn rất xa vời đối với tôi. Các nhà báo phải vậy. Chúng tôi đã được đào tạo để trở thành những người quan sát lạnh lùng, chuyên nghiệp, như yêu cầu của công việc và độc giả.
Nhưng giờ đây, thay vì kể một câu chuyện, tôi đã trở thành câu chuyện mất rồi.
Giả sử New York Times chuẩn bị trước cho tình huống cấp bách, có lẽ tôi đã bị cách ly khỏi bức thư và các đồng nghiệp. Nhưng cũng như nhiều tổ chức khác, chúng tôi không qua các khoá huấn luyện về các vụ tấn công sinh học và hoá học.
Vậy là, một biên tập viên lớn tuổi quàng tay qua vai tôi và đi cùng tôi đến phòng y tế ở tầng khác. Khi tôi trở lại, những đồng nghiệp và biên tập viên lo lắng lại ùa tới bên tôi. Có ai đó mang cho tôi một tách trà. Giờ đây, chính họ cũng phải dùng thuốc Cipro (một loại kháng sinh chống bệnh than).
Trong vòng 20 phút sau khi sự việc xảy ra, phải đến một tá các quan chức từ nhiều cơ quan khác nhau có mặt ở toà nhà. Mỗi người lại đưa ra ý kiến riêng của mình về những việc cần làm. Cả tầng nhà được sơ tán. Cảnh sát chụp ảnh, xét nghiệm trên bàn tôi. Nhiều người trong số họ từ đầu đến chân mặc trang phục phòng ngừa kín bưng, đeo mặt nạ. Tôi ở lại để chỉ cho họ xem thứ bột ấy rơi ở đâu và tôi đã đi đâu sau khi mở thư.
Tôi sẽ không bao giờ quên cái cảnh những nhân vật trông như ở hành tinh khác đi qua căn phòng tin tức thường ngày vẫn tất bật, nhưng giờ thì vắng teo, tĩnh lặng, ngoại trừ tiếng chuông của những cú điện thoại không có ai nhấc máy.
Họ hỏi han tôi tới tấp. Tôi quen ai ở Florida? Mới đây tôi có tới đó hay không? Thường tôi có tự mở thư của mình hay không? Liệu có lý do để ai đó gửi cho tôi một bức thư như thế hay không? Liệu tôi có thể miêu tả thứ bột nọ; nó rơi ở đâu và rơi thế nào? Tôi biết họ đang xác định kích cỡ của loại bột.
Các quan chức trong lực lượng phối hợp chống khủng bố, mặc đồ dân sự, lịch lãm, chuyên nghiệp và rất quan tâm đến tôi. Don Weiss, bác sĩ phụ trách một bộ phận giám sát trong chương trình của thành phố về những căn bệnh có thể lây, cũng vậy. Ông bình thản trả lời những câu hỏi của các phóng viên và biên tập viên. Nhiều người mới quay trở lại phòng tin. Ông và những người cộng sự của ông ở cùng chúng tôi suốt cả ngày, lấy mẫu gạc, phát thuốc Cipro cho những ai có nguy cơ nhiễm bệnh và trả lời các câu hỏi của tất cả chúng tôi về tình hình ở New York.
6 giờ tối, tôi bắt đầu viết bài về Bộ Ngân khố cho trang báo ngày thứ bảy. Cho đến tối thứ bảy vẫn chưa có kết luận liệu loại bột này có chứa khuẩn than hay không. Hai lần kiểm tra đầu kết quả âm tính. Lần kiểm tra thứ ba cho thấy chất bột này có vẻ vô hại.
Nhưng tôi biết chắc chắn một điều: Những bức thư tương tự đã được gửi cho một tờ báo khổ nhỏ xuất bản ở Florida và đài NBC, và giờ đây là New York Times. Có thể có bột vi khuẩn than, có thể không.
Điều đó không quan trọng nữa. Nhưng điều quan trọng là đã có một cách không chút tốn kém để ai đó tạo nên một sự hoang mang tột độ, mà không mất công giải quyết những thách thức về kỹ thuật lan truyền bệnh than. Kẻ làm việc này chỉ cần vài bào tử bệnh than hay thậm chí phấn rôm cho trẻ em, và vài con tem.
Minh Châu (theo The Guardian)