![]() |
Tướng William Donovan, cha đẻ của OSS. |
Giới tình báo Mỹ dành ưu tiên hàng đầu cho chiến trường châu Âu trong thời gian 1939-1945. Tuy vậy, cũng đã có hàng chục cơ quan tình báo của nước này triển khai hoạt động tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong số đó có Cơ quan tình báo Hải quân (ONI), Đơn vị tình báo Quân sự của Bộ Chiến tranh (G2)… và quan trọng hơn cả là Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), tiền thân của Cục tình báo trung ương Mỹ CIA.
![]() |
Các cơ sở của OSS tại châu Á trong Chiến tranh thế giới thứ hai (tên các địa danh và đường biên giới trên bản đồ được thể hiện theo thời điểm năm 1941). |
Người có công tạo dựng và lãnh đạo OSS là tướng William Donovan. Hiện nay ông vẫn được CIA tôn vinh như một trong những người sáng lập của mình. OSS ra đời với mục tiêu chấm dứt tình trạng không thống nhất giữa các cơ quan tình báo dân sự và quân sự của Mỹ.
Từ năm 1941, OSS đã có biệt đội số 101 đóng ở Miến Điện. Nhưng phải mãi đến những năm cuối của cuộc chiến tranh, OSS mới tham gia mạnh vào các cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật ở chiến trường châu Á. Nguyên nhân là trong thời gian đầu của cuộc chiến, các chỉ huy của lục quân và hải quân Mỹ đã ngăn không cho OSS hoạt động tại những khu vực do họ phụ trách ở Thái Bình Dương.
Giới chức quân sự tại Mỹ luôn dè chừng OSS vì cho rằng, cơ quan này chỉ chuyên xâm phạm vào chuyện của người khác. Về sau, khu vực duy nhất được bỏ ngỏ cho OSS hoạt động ở châu Á là chiến trường Trung Quốc-Miến Điện-Ấn Độ xa xôi.
![]() |
Tướng Donovan tại Trung Quốc. |
OSS đã từng bước xây dựng các căn cứ lớn tại New Delhi (Ấn Độ) và Rangoon (Miến Điện). Còn tại Trung Quốc, phải qua một thời gian dài khó khăn OSS mới được phép thực hiện các chiến dịch tình báo và biệt kích. Thời điểm này, Tưởng Giới Thạch đã thâu tóm được quyền lực và đang ra sức trên cả hai mặt trận: chống phát xít Nhật xâm lược và chống quân giải phóng của những người Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo.
Viên trùm lực lượng cảnh sát mật và chỉ huy hoạt động tình báo của Tưởng Giới Thạch là Tai Li muốn người Mỹ giúp đỡ nhưng lại không muốn cho tình báo Mỹ tiến hành các chiến dịch độc lập trên đất Trung Quốc. Do đó, OSS nói riêng và các cơ quan tình báo khác của Mỹ nói chung phải vượt qua sự chống phá và ghen tị của Tai Li trước khi làm bất cứ việc gì tại Trung Quốc.
Tình hình càng khó khăn hơn đối với OSS bởi Tai Li đòi hỏi rằng, các chiến dịch tình báo của Mỹ ở Trung Quốc chỉ được phép tiến hành dưới sự chỉ đạo của văn phòng ONI (Cơ quan tình báo hải quân) mà thôi. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai ONI do đại uý Milton E. Miles chỉ huy.
![]() |
Các sĩ quan OSS chụp ảnh kỷ niệm tại Miến Điện. |
Cuối năm 1943, tướng Donovan buộc phải tỏ ra cứng rắn với Tai Li khi tuyên bố rằng, OSS sẽ mở các chiến dịch tình báo tại Trung Quốc cho dù ông ta có muốn hay không. Tuy vậy, Donovan vẫn tận dụng mọi biện pháp, kể cả thủ đoạn ngầm, nhằm giúp cho các sỹ quan của mình dành được một vai trò chắc chắn ở Trung Quốc. Donovan coi mục tiêu này quan trọng hơn mọi vấn đề liên quan đến Tai Li.
Sở dĩ Donovan coi trọng việc khẳng định vai trò của OSS ở Trung Quốc vì lúc đó đã có ít nhất 10 cơ quan tình báo của Mỹ đang hoạt động ở nước này và cạnh tranh gay gắt với nhau về mọi mặt, kể cả việc tranh thủ cảm tình của chính quyền địa phương.
![]() |
Bìa cuốn sách OSS ở Trung Quốc. |
Theo Maochun Yu, tác giả cuốn “OSS ở Trung Quốc: Khúc dạo đầu của Chiến tranh lạnh” (OSS in China: Prelude to Cold War), thì cuối cùng OSS cũng trở thành đơn vị chiếm ưu thế nhất trong sự hỗn loạn của các cơ quan tình báo Mỹ ở Trung Quốc.
OSS có khả năng đáp ứng được những yêu cầu của các sĩ quan Mỹ theo cách mà không một tổ chức tình báo nào khác của Mỹ làm được. Điệp viên và các nhà phân tích tình hình của OSS đã chứng tỏ phương pháp hoạt động của họ hỗ trợ một cách thực tế nhất đối với các chiến dịch chống phát xít Nhật trên chiến trường.
Tướng Claire L. Chennault, người đã xây dựng “Phi đội Hổ bay” nổi tiếng và là tổng chỉ huy không quân Mỹ tại Trung Quốc luôn phải cần những tin tức tình báo chính xác. Trong khi đó, chỉ OSS mới có thể cung cấp được những thông tin như vậy.
![]() |
Tướng Claire L. Chennault. |
OSS đã đáp ứng yêu cầu của tướng Chennault thông qua một “Ban tham mưu về kỹ thuật cho lực lượng không quân và lục quân” (AGFRTS). Đơn vị AGFRTS của OSS đã hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động của các các phi đội máy bay chiến đấu do Chennault chỉ huy đóng ở thành phố Côn Minh. Đặc biệt là trong việc xác định mục tiêu đánh bom.
Khi viên tư lệnh mới của quân đội Mỹ tại Trung Quốc là trung tướng Albert C. Wedemeyer bắt đầu tiếp nhận nhiệm sở và khẳng định quyền lực của ông ta đối với tất cả các hoạt động tình báo của Mỹ ở nước này, OSS đã khôn khéo chủ động liên minh với ông ta và chuyển Ban tham mưu AGFETS về Bộ tư lệnh quân Mỹ tại Trung Quốc.
Mặc dù hoạt động của OSS ở Trung Quốc không dành được những điều như tướng Donovan mong muốn và cũng chưa bao giờ được độc lập hoàn toàn trong hoạt động, nhưng OSS vẫn là đơn vị tình báo đóng vai trò quan trọng nhất của Mỹ tại đây cho đến khi chiến tranh kết thúc.
*Còn nữa
Đình Chính (theo Boston Globe, CIA.gov)