Sáng 9/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng có thêm 65' để hoàn thành lần đăng đàn chất vấn đầu tiên của mình, kể từ khi nhậm chức. Sau hai phiên, bà Hồng được Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá là "mới nhận nhiệm vụ nhưng nắm chắc vấn đề của ngành, trả lời thẳng thắn".
Một trong những vấn đề cũng không mới của ngành bị chất vấn lần này là việc ngân hàng lãi khủng nhưng chia sẻ với doanh nghiệp ít. Đại biểu Trần Văn Lâm hỏi sự chia sẻ của ngành ngân hàng với doanh nghiệp thời gian qua "đã tương xứng chưa, trong khi hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, cả hệ thống chính trị góp sức hỗ trợ với Nghị quyết 42 của Quốc hội khóa XIV".

Đại biểu Trần Văn Lâm. Ảnh: Media Quốc hội
Ông cũng dẫn chứng lại, hai năm qua kinh tế tăng trưởng thấp kỷ lục, nhiều doanh nghiệp đổ vỡ, rút khỏi thị trường; người dân lao đao vì dịch; nhiều khoản nợ ngân hàng đến hạn không trả được. Nhưng hầu hết nhà băng vẫn lợi nhuận cao, chia lãi khủng. "Liệu đây có phải 'nỗi oan Thị Kính' không?", ông hỏi.
Khi giải trình, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng giải thích trước về những chia sẻ của các nhà băng. Bà dẫn chứng, theo kêu gọi từ Ngân hàng Nhà nước, từ khi Covid-19 xảy ra từ đầu năm 2020 đến nay, các tổ chức tín dụng đã đồng hành với doanh nghiệp và người dân bằng cách miễn giảm lãi với tổng số tiền là 48.000 tỷ đồng. Theo bà, đây cũng là sự chia sẻ của hệ thống ngân hàng - những tổ chức hoạt động trên mô hình lợi nhuận từ khoản thu nhờ lãi.
Bà còn nói thêm, là trung gian tài chính, nguồn thu là từ lãi và các loại hình dịch vụ khác, nhưng các ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro và nợ xấu có thể thường xuyên phát sinh nên cần giữ một nguồn tài chính dự phòng.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng tại phiên chất vấn sáng 9/6. Ảnh: Hoàng Phong
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các nhà băng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho doanh nghiệp và người dân và các đơn vị đã thực hiện tích cực. Nhiều doanh nghiệp có nợ xấu, lẽ ra không đủ điều kiện vay vốn nhưng bằng cách này, họ vẫn được giải ngân.
Trong 5 tháng đầu năm nay, ngành ngân hàng bơm vốn vào nên kinh tế với mức tăng trưởng 8%. Mức này theo Thống đốc là cao, cho thấy đây cũng là nhờ Thông tư tái cơ cấu các khoản vay và cho phép giữ nguyên nhóm nợ, nên các doanh nghiệp có khả năng phục hồi sau đại dịch mới tiếp tục được vay vốn.
Về vấn đề lợi nhuận cao của ngân hàng, bà Hồng mong muốn các đại biểu lưu ý tới tỷ suất sinh lời trên quy mô của các ngân hàng, thay vì chỉ nhìn vào con số lãi khủng hàng nghìn tỷ đồng.
Bà cho biết, các nhà băng được thành lập với mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận và có quy mô vốn, tài sản rất lớn. Hiện nay nếu đến cuối năm 2020, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng tổng tài sản là 14 triệu tỷ đồng, đến tháng 3/2022 lên đến hơn 16 triệu tỷ đồng, tín dụng 12 triệu tỷ đồng. Tài sản của một tổ chức tín dụng, như ngân hàng thương mại nhà nước, khoảng 1,7 triệu tỷ đồng. "Lợi nhuận sinh lời là mười mấy nghìn hay hai mươi nghìn tỷ đồng trên tổng số tài sản đó thì không phải là lớn. Tỷ lệ sinh lời trên vốn của một số tổ chức tín dụng so với các doanh nghiệp ở các ngành khác không cao", bà nói.
Vì sao độc quyền vàng miếng SJC?
Cuối phiên chất vấn ngày 8/6, vấn đề vì sao giá vàng trong nước tăng cao và độc quyền thương hiệu vàng miếng SJC có phải là nguyên nhân được đại biểu hỏi và tranh luận. Vấn đề này tiếp tục "nóng" tại phiên sáng 9/6.
Đại biểu Nguyễn Phương Thuỷ (Hà Nội) nghi ngờ việc độc quyền thương hiệu vàng miếng quốc gia SJC khiến giá loại vàng miếng này tăng cao hơn hẳn các thương hiệu khác. Có loại của thương hiệu khác, cũng là vàng miếng, nhưng bà dẫn chứng thấp hơn vàng miếng SJC đến 15 triệu đồng (theo giá hôm 8/6).
Trả lời, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho hay, SJC là thương hiệu vàng được người dân ưa chuộng từ trước khi có Nghị định 24/2012 về chống vàng hoá ra đời. Theo nghị định này, Ngân hàng Nhà nước được độc quyền sản xuất vàng miếng và khi đánh giá tình hình nên sản xuất một thương hiệu vàng riêng mới, hay chọn loại vàng của thương hiệu đã có sẵn trên thị trường.
"Nếu chọn làm một thương hiệu vàng quốc gia mới thì xã hội có thể mất nhiều chi phí. Sau khi cân nhắc các mặt lợi ích, chi phí, Ngân hàng Nhà nước chọn SJC là thương hiệu vàng miếng quốc gia, loại chiếm hơn 90% thị phần ở thời điểm đó", bà Hồng giải thích.
Thống đốc thông tin thêm, từ năm 2014 đến nay giá vàng biến động khó lường, nên doanh nghiệp để giá cao do lo sợ rủi ro. "SJC mua cao thì bán cao, nên người dân chọn mua thương hiệu này thì khi mua cao, bán sẽ được giá. Còn mua thương hiệu khác thì mua thấp, bán thấp", bà nói thêm
Việc có sửa Nghị định 24 hay không, Thống đốc nói, đã mất nhiều công sức để có được sự ổn định thị trường, giờ cho các thương hiệu khác sản xuất vàng miếng thì cần đánh giá kỹ lưỡng. Vì thế, nếu sửa Nghị định 24, sẽ xin ý kiến các bộ, ngành liên quan.
Chưa hài lòng về câu trả lời của Thống đốc Nguyễn Thị Hồng về chuyện SJC độc quyền thương hiệu vàng miếng, ông Phạm Văn Hoà, Phó trưởng đoàn đại biểu Đồng Tháp, giơ biển tranh luận. Theo ông, Nghị định 24 đã có hiệu lực 10 năm, khi đó vàng thế giới trên dưới 1.600 USD một ounce, vàng trong nước cũng chỉ 30 triệu đồng, nhưng giờ giá trong nước đã lên tới 70 triệu đồng.
"Tại sao không sửa nghị định này? Có nên để SJC độc quyền hay Ngân hàng giao đơn vị, tổ chức làm một thương hiệu vàng khác để giảm sự độc quyền của SJC, thị trường vàng hạ xuống. Giá vàng cứ tăng thế này thì lạm phát sẽ tăng, tiền đồng mất giá", ông Hoà lo lắng.

Ông Phạm Văn Hoà, Phó trưởng đoàn đại biểu Đồng Tháp. Ảnh: Media Quốc hội
Chia sẻ lo ngại của đại biểu Hoà, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhắc lại quy định tại Nghị định 24, là cho phép Ngân hàng Nhà nước được độc quyền vàng miếng. "Ở đây Ngân hàng Nhà nước thuê SJC sản xuất thương hiệu vàng miếng quốc gia", bà nhắc lại.
Bà nói thêm, việc nên để thêm thương hiệu khác cùng sản xuất vàng miếng quốc gia để giảm độc quyền của SJC hay không, thì quá trình sửa nghị định này ngành ngân hàng sẽ lắng nghe, xin ý kiến rộng rãi.
Phó thủ tướng: Vẫn cho vay nếu doanh nghiệp bất động sản tốt
"Chia lửa" với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Phó thủ tướng Lê Minh Khái giải trình thêm các vấn đề chất vấn đại biểu Quốc hội nêu. Ông khẳng định, điều hành chính sách tiền tệ vừa qua chủ động, linh hoạt và "không làm tăng lạm phát". Lạm phát tăng chủ yếu do tăng giá hàng hoá, trong đó có mặt hàng chủ yếu là xăng dầu.
Ví dụ, với 13 đợt tăng giá xăng dầu trong 5 tháng đầu năm, giá đắt thêm 7.300-7.900 đồng một lít, tức là 59,49% trong 5 tháng. Mức này đã tác động tới CPI chung tăng 1,8 điểm phần trăm.
Phó thủ tướng cho hay, tới đây Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tăng trưởng tích cực, mặt bằng lãi suất hợp lý, tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại hối củng cố để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, nâng cao sức chống chịu nền kinh tế.

Phó thủ tướng Lê Minh Khái. Ảnh: Hoàng Phong
Trước áp lực giá hàng hoá tăng cao, xu hướng ngân hàng trung ương các nước tăng lãi suất, Chính phủ sẽ theo sát tình hình để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Cơ quan điều hành khuyến khích các ngân hàng giảm chi phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay; tăng trưởng tín dụng phù hợp để đủ vốn cho sản xuất, kinh doanh; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Về room tín dụng, vấn đề được đại biểu chất vấn và tranh luận nhiều phiên hôm qua, Phó thủ tướng nói sẽ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu điều kiện, tiêu chuẩn để tránh áp đặt hành chính.
Liên quan tới cho vay chứng khoán, bất động sản..., trước quan điểm "siết" tín dụng vào bất động sản, Phó thủ tướng cho rằng, phải rà soát lại việc cho vay vừa qua có đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện hay chưa.
"Nếu trước đây làm chưa đúng thì phải rà soát, điều chỉnh lại cho đúng, còn nếu làm đúng rồi thì tiếp tục cho vay. Với dự án, chương trình hiệu quả thì tiếp tục cho vay, cấp vốn, đảm bảo tín dụng cho nền kinh tế", Phó thủ tướng khẳng định.
Hoài Thu - Viết Tuân - Hoàng Thùy
Xem diễn biến chính