![]() |
Nông nghiệp có thể bị tác động lớn nhất. |
Việt Nam là một trong những ứng cử viên của WTO. Cũng như các nước và vùng lãnh thổ đang tiến hành thương lượng để gia nhập WTO, Việt Nam rất quan tâm việc thực hiện các thỏa thuận mà các vòng đàm phán của WTO thông qua.
Những kết quả về tự do hóa thương mại mà WTO thực hiện từ Vòng đàm phán Uruguay (1995) và Hội nghị Seattle (1999) chưa đem lại công bằng cho các nước thành viên WTO. Sự không công bằng trong việc thực hiện các cam kết thương mại tại Seattle được thể hiện ở rất nhiều điểm.
Theo quy định, các nước buộc phải cắt giảm thuế quan, nhưng trên thực tế các nước giàu vẫn duy trì thuế suất rất cao đối với hàng nhập khẩu. Chẳng hạn đối với hàng dệt - may, mặt hàng mang tính chất chiến lược của các nước đang phát triển, theo cam kết các nước phát triển phải giảm mức thuế suất bình quân là 17%, nhưng trên thực tế EU chỉ giảm 3,6%, Mỹ giảm 1,3%. Tại thị trường các nước phát triển, thuế suất đánh vào hàng nông sản nhập khẩu từ các nước đang phát triển cao gấp bốn lần thuế suất đánh vào hàng nhập khẩu từ các nước phát triển. Trợ cấp cho nông nghiệp của các nước phát triển OECD lên tới hơn một tỷ USD/ngày, khiến giá cả trên thị trường thế giới bị kéo xuống, gây ảnh hưởng thu nhập xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển.
Những quy tắc, luật lệ của WTO về sở hữu trí tuệ, đầu tư, dịch vụ... đều nhằm bảo đảm quyền lợi của các nước giàu, trong khi các nước đang phát triển phải gánh chịu nhiều tổn thất. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan thương mại đã đặt ra những yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, gây khó khăn cho các nước đang phát triển trong việc sử dụng tài nguyên trong nước để tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu, tạo thêm việc làm. Hiệp định đa phương về đầu tư (MAI) buộc các nước phải tạo ra sự đối xử bình đẳng giữa các công ty nước ngoài và công ty trong nước, khiến các nước đang phát triển lo ngại phải chịu sự cạnh tranh chi phối của các công ty nước ngoài trên thị trường nội địa. Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATs) buộc các nước đang phát triển phải mở cửa và tự do hóa thị trường dịch vụ, tạo ra mối lo về sự chiếm lĩnh của các công ty xuyên quốc gia trong ngành dịch vụ của các nước đang phát triển. Hiệp định về thương mại liên quan quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) áp đặt những hạn chế ngặt nghèo đối với quyền của các nước đang phát triển trong việc áp dụng, chuyển giao công nghệ để phát triển kinh tế...
Trong khi đó, các nước đang phát triển phải đối mặt rất nhiều khó khăn trong việc khiếu kiện tại WTO về bán phá giá, về bảo vệ môi trường và về giải quyết tranh chấp, gây nhiều tốn kém cho các nước đang phát triển do những biện pháp mang tính chất trừng phạt và phân biệt đối xử của các nước phát triển.
Hội nghị Doha (11/2001) diễn ra trong bối cảnh có nhiều bất đồng quan điểm giữa các nước đang phát triển và các nước công nghiệp phát triển. Theo quan điểm của các nước đang phát triển, sau 8 năm kể từ khi WTO ra đời và sau Hội nghị Seattle, họ không đạt được những lợi ích gì đáng kể so với những nhượng bộ to lớn mà họ phải chấp thuận tại Vòng đàm phán Uruguay. Những cam kết thực hiện tự do hóa thương mại theo quy định của WTO đã thật sự vượt quá khả năng của các nước đang phát triển, trong khi các nước công nghiệp phát triển không giúp đỡ được bao nhiêu và cũng rất hạn chế trong việc mở cửa thị trường của họ. Những mâu thuẫn và sự bất bình đẳng về lợi ích giữa các nhóm nước ngày càng tăng. Còn theo quan điểm của các nước phát triển, họ thừa nhận sự trì trệ của WTO và sự suy thoái của nền kinh tế thế giới sau sự kiện 11/9 ở Mỹ, nhưng nguyên nhân thì họ lại cho rằng phần lớn là do lỗi của các nước đang phát triển không thực hiện đúng các cam kết của mình.
Tại Hội nghị Doha, các nước đang phát triển đã lên tiếng và đưa ra một loạt các khuyến nghị, trong đó nổi bật là việc yêu cầu Hội nghị Doha thừa nhận sự mất cân đối về nghĩa vụ giữa các nước phát triển và đang phát triển trong các hiệp định hiện hữu, và quan tâm hơn nữa đến vấn đề phát triển ở các nước đang phát triển. Trên cơ sở của những yêu cầu đó, các nước đang phát triển đề nghị Hội nghị Doha xem xét và thực hiện một số cam kết. Trước hết, thay vì các nguyên tắc áp đặt, cần phải có sự đối xử đặc biệt đối với các nước đang phát triển; Rà soát lại số lớn các cam kết trong các hiệp định của WTO theo hướng ưu tiên cho các nước đang phát triển; Thực hiện các biện pháp ưu đãi trong những lĩnh vực liên quan tăng trưởng thương mại của các nước đang phát triển như nợ nước ngoài, chuyển giao công nghệ, viện trợ, lao động, tỷ giá hối đoái...; Đòi hỏi các nước phát triển phải tôn trọng những cam kết với các nước đang phát triển về các vấn đề như thuế quan, trợ cấp xuất khẩu, chống bán phá giá, rào cản kỹ thuật; Có quyền bác bỏ việc xem xét lại những vấn đề mới như cạnh tranh, đầu tư, mua sắm của chính phủ, các công cụ thương mại, lao động và môi trường, bởi các nước này đang còn phải chịu những gánh nặng trong khi thực hiện những cam kết hiện hữu; Buộc các nước phát triển phải thương lượng giảm thuế đánh vào các mặt hàng công nghiệp và giảm nhẹ những hạn chế phi thuế quan; Đòi phải có sự dân chủ trong việc giải quyết các vấn đề chung của WTO.Kết quả của Hội nghị Doha là đã tạo ra các cuộc thương lượng mới trên một loạt các chủ đề, là một bước tiến trong quá trình đẩy mạnh tự do hóa hơn nữa. Tuyên bố Doha khẳng định tiếp tục những cuộc đàm phán về một số các hiệp định hiện hữu như nông nghiệp, dệt-may, thương mại dịch vụ, chống bán phá giá... nhưng tựu chung lại, diễn đàn này vẫn bị coi là một Hội nghị thất bại của các nước đang phát triển. Sau Doha, Mỹ vẫn quyết định tiếp tục trợ cấp nông nghiệp với trị giá 180 tỷ USD trong vòng 10 năm, bất chấp sự phản đối của các nước. Mỹ cũng quyết định tăng thuế nhập khẩu thép lên 40%, viện lý do là để chống lại những hành động bán phá giá, nhưng thực chất là để bảo hộ cho ngành công nghiệp thép của Mỹ. Hơn thế nữa, các quy chế chống bán phá giá của Mỹ còn áp dụng cả cho hàng dệt - may và nông sản. Đi kèm với việc mở rộng hạn ngạch xuất khẩu, các nước phát triển còn tăng cường áp dụng các biện pháp phi thuế quan.
Trong khi đó, một loạt vấn đề mà các nước đang phát triển đưa ra đàm phán đã bị các nước công nghiệp phát triển bác bỏ hoặc giải quyết rất mơ hồ. Mỹ và các nước châu Âu bác bỏ yêu cầu phải dỡ bỏ nhanh các hạn ngạch hàng dệt may; tiếp tục thúc ép các nước mở cửa thị trường dịch vụ và loại bỏ những ngoại lệ về đối xử Tối huệ quốc (MNF); tiếp tục khởi động các cuộc đàm phán về các vấn đề mới như đầu tư, cạnh tranh, mua sắm của chính phủ...; thúc ép các nước đàm phán và ký Hiệp định đa phương về thương mại và môi trường (MATE) nhằm ngăn chặn và trừng phạt những hành vi vi phạm liên quan phá hoại môi trường...
Nhiều nước đang phát triển cho rằng, trong Hội nghị Doha vẫn còn tư tưởng "cá lớn nuốt cá bé". Bằng các biện pháp như đe nẹt (cảnh cáo Haiti và Dominica phải chấm dứt đối đầu với Mỹ về vấn đề mua sắm của chính phủ nếu không muốn bị mất quyền ưu tiên thương mại với Mỹ); thỏa nhượng (EU chủ động dỡ bỏ mọi thứ thuế đánh vào hàng dệt may của Pakistan, thừa nhận quyền chính trị hợp pháp của nhà lãnh đạo Pakistan...); mua chuộc (cam kết sẽ viện trợ nhiều hơn nữa cho Nigeria, viện trợ trọn gói cho các nước vùng Caribe)..., các nước giàu về cơ bản vẫn chi phối Hội nghị Doha và điều khiển nó theo luật chơi của mình, đặt nhiều nước đang phát triển vào thế bất lợi.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, kinh nghiệm nhiều nước đang phát triển đã tham gia WTO cho thấy, cái lợi trước tiên có lẽ là việc thay đổi, điều chỉnh cách chơi của mình cho phù hợp luật chơi quốc tế phổ biến. Trước hết, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Cơ hội vì đây là dịp để Việt Nam nhìn lại những chính sách, luật lệ của mình, cái gì không phù hợp xu thế tất yếu toàn cầu hóa thì sửa đổi. Thách thức cũng chính là ở sự sửa đổi này, có nhìn ra được và tự mình chấp nhận sửa đổi hay không. Những cam kết giảm trợ cấp, mở rộng hạn ngạch xuất khẩu của các nước, nhất là nhóm nước phát triển tại Hội nghị Doha có thể giúp Việt Nam giành được nhiều thị trường hơn, tăng xuất khẩu nhiều hơn các mặt hàng nông sản và dệt may. Ngoài ra, khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có tiếng nói mạnh hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn với các cường quốc thương mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ chung, để giải quyết những tranh chấp nảy sinh như vấn đề bán phá giá cá tra và cá ba sa, vấn đề nhãn mác sản phẩm...
Việt Nam đang tìm lời giải đáp cho nhiều bài toán khó đó là những yêu cầu mở cửa thị trường trong nước, nhất là thị trường nông sản, vấn đề đòi dỡ bỏ độc quyền trong khi chưa đủ lực cạnh tranh, vấn đề tự do hóa dịch vụ, cải cách tài chính, ngân hàng, cạnh tranh không ngang sức với các công ty nước ngoài, những rào cản quy định về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, giảm trợ cấp sản xuất và xuất khẩu, những quy định về quyền sở hữu trí tuệ không có nhân nhượng cho các nước đang phát triển, việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về nhãn, mác thương mại, luật bản quyền tác giả, mẫu mã, kích cỡ sản phẩm, quy định nghiêm ngặt về không có ngoại lệ trong các cuộc đàm phán tiếp cận thị trường hàng hóa công nghiệp, không chấp nhận giảm bớt bảo hộ đối với các ngành công nghiệp non trẻ, việc hạ bớt mức thuế khi gia nhập WTO và nhiều vấn đề nan giải khác. Nhưng Việt Nam không thể nằm ngoài WTO, không thể tự tách mình ra khỏi các hoạt động thương mại thế giới, càng không thể tiếp tục đứng ngoài vòng Doha và WTO nơi hứa hẹn tạo nhiều cơ hội mở rộng buôn bán, kinh doanh với toàn thế giới.
PGS Đỗ Đức Định - Viện Kinh tế Thế giới