Các nhà khoa học Na Uy trong chuyến khảo sát xác tàu ngầm Komsomolets ở vùng biển cách đảo Bear của nước này 180 km đã phát hiện nước biển tại đây có nồng độ phóng xạ cao hơn mức bình thường 100.000 lần, thậm chí tới 800.000 lần ở mẫu nước biển nhiễm phóng xạ cao nhất. Họ lo ngại chiếc tàu ngầm hạt nhân Liên Xô này sẽ trở thành một thảm họa mới về môi trường, sau tai nạn thảm khốc khiến nó chìm xuống đáy biển 30 năm trước.
Năm 1966, Viện Thiết kế Rubin của Liên Xô được yêu cầu phát triển mẫu tàu ngầm tối tân mang ngư lôi hạng nặng và tên lửa hành trình trang bị đầu đạn hạt nhân, cùng khả năng lặn sâu gấp nhiều lần các tàu ngầm Mỹ cùng thời.
Kết quả là sự ra đời của tàu ngầm Đề án 685 "Plavnik", với chiếc đầu tiên và duy nhất của dự án này mang tên mã K-278 được khởi đóng năm 1978 tại nhà máy Sevmash. Con tàu được hạ thủy vào tháng 6/1983 và biên chế sau đó 6 tháng.
Với mục tiêu lặn sâu hơn mọi vũ khí của đối phương, K-278 được trang bị hàng loạt công nghệ hiện đại nhất của Liên Xô thời đó. Tàu ứng dụng thiết kế hai thân vỏ, trong đó phần thân chịu lực bên trong được chế tạo hoàn toàn bằng hợp kim titan 48T, vật liệu cực kỳ đắt đỏ với độ bền tương đương thép nhưng chỉ nhẹ bằng một nửa.
Việc hàn các tấm titan lớn để tạo thành vỏ tàu cũng rất tốn kém, do quá trình này cần được thực hiện trong môi trường khí trơ không có oxy. Kỹ thuật viên trong lúc hàn phải mặc đồ bảo hộ kín hoàn toàn với hệ thống cấp dưỡng khí độc lập như các phi hành gia.
Tàu ngầm K-278 hoàn thiện dài 117 m, rộng 11 m và có lượng giãn nước 8.000 tấn khi lặn. Vỏ chịu lực titan cho phép K-278 lặn sâu tới 1.250 m, gấp 4 lần độ sâu hành trình của tàu ngầm Mỹ. Lò phản ứng hạt nhân OK-650 cho phép tàu đạt tốc độ tối đa 56 km/h dưới lòng biển.
K-278 đóng vai trò nền tảng thử nghiệm công nghệ tàu ngầm cho Liên Xô, khả năng tác chiến chỉ là ưu tiên thứ yếu. Được trang bị hệ thống điều khiển tự động hiện đại, con tàu chỉ cần tối đa 64 người vận hành so với hơn 100 thủy thủ trên tàu ngầm cùng thời.
Sau khi được biên chế vào tháng 12/1983, con tàu trải qua hàng loạt thử nghiệm trong vòng 4 năm tiếp theo. K-278 lập kỷ lục vào năm 1984 khi lặn xuống độ sâu 1.020 m, sâu nhất với mọi tàu ngầm quân sự và chỉ thua kém những tàu lặn khoa học được thiết kế đặc biệt.
Các tàu ngầm hạt nhân hiện đại nhất của Mỹ như lớp Los Angeles và Virginia chỉ lặn xuống độ sâu 240 m, trong khi ba tàu ngầm đắt đỏ thuộc lớp Seawolf cũng chỉ đạt mức 490 m. Ngay cả ngư lôi Mark 48 hiện đại cũng không thể lặn sâu quá 800 m. Điều này khiến K-278 được mệnh danh là tàu ngầm "bất khả xâm phạm", nằm ngoài tầm với của mọi vũ khí trong biên chế đối phương.
Tháng 10/1988, K-278 được đặt tên Komsomolets, trở thành một trong số ít tàu ngầm Liên Xô có tên riêng. Komsomolets bắt đầu chuyến tuần tra đầu tiên với 69 thành viên thủy thủ đoàn vào tháng 3/1989 dưới quyền của đại tá hải quân Evgeny Vanin. Tuy nhiên, đây cũng là chuyến tuần tra cuối cùng và duy nhất của tàu ngầm này.
Ngày 7/4/1989, trong ngày tuần tra thứ 39, sự cố bắt đầu xảy ra khi Komsomolets đang di chuyển trên vùng biển quốc tế ở độ sâu 386 m, cách bờ biển Na Uy hơn 500 km về phía bắc. Lúc 10h55, nguồn điện trên tàu đột nhiên trồi sụt bất thường. 5 phút sau, thủy thủ Nodari Bukhnikashvili báo cáo mọi thứ vẫn ổn trong khoang số 7.
Tuy nhiên, đường ống dẫn khí áp suất cao kết nối với bể dằn ở khoang số 7 bất ngờ bị bục ngay sau đó và làm hư hại hệ thống dẫn dầu. Một bảng điện bị chập ở khoang số 7 đã làm tia dầu bốc cháy, ngọn lửa nhanh chóng lan ra xung quanh do môi trường có nồng độ oxy cao.
Ba phút sau, thiếu tá Vyacheslav Yudin, sĩ quan giám sát cơ giới ở phòng điều khiển, phát hiện nhiệt độ gia tăng nhanh chóng ở đuôi tàu. Yudin liên lạc với Bukhnikashvili qua bộ đàm nhưng không thấy trả lời, sau đó báo cáo với hạm trưởng Vanin và phát lệnh báo động.
"Tôi đang nghỉ ngơi trong khoang thì còi báo động vang lên. Tôi lao tới vị trí và cùng tham gia cứu con tàu với các thành viên thủy thủ đoàn", Igor Kalinin, sĩ quan sonar trên tàu Komsomlets khi đó, nhớ lại.
Kỹ sư trưởng Valentin Babenko đề xuất phương án dập lửa bằng freon, loại khí làm lạnh không bắt cháy nhưng có thể gây tử vong cho con người. Đại tá Vanin tỏ ra lưỡng lự bởi còn một số thủy thủ trong khoang số 7.
Hạm trưởng sau đó miễn cưỡng ra lệnh xả khí freon vào khoang số 7, thủy thủ Bukhnikashvili cũng trở thành người đầu tiên thiệt mạng trên Komsomolets. Dù vậy, khí freon không dập tắt được ngọn lửa bởi đường ống khí nén bị bục liên tục cấp oxy cho nó và biến khoang số 7 thành một lò lửa. Ngọn lửa nhanh chóng vượt ngoài tầm khống chế của thủy thủ đoàn.
Áp suất lớn ở khoang số 7 đẩy dầu lọt vào khoang số 6. Ngọn lửa lan qua khoang số 6 qua ống cáp điện, bất chấp việc cửa chống lửa giữa hai khoang đã được đóng. Các thủy thủ trong khoang số 6 không kịp đeo mặt nạ phòng độc và nhanh chóng tử vong do ngạt khói.
Máy phát điện của tàu ngừng hoạt động, khiến hệ thống bảo vệ lò phản ứng hạt nhân được tự động kích hoạt để ngăn tình trạng quá tải. Sĩ quan điều khiển sau đó áp dụng biện pháp tắt khẩn cấp để ngăn lõi lò nóng chảy và gây rò rỉ phóng xạ, nhưng điều này cũng vô hiệu hóa nguồn năng lượng duy nhất trên tàu.
Lúc 11h13, năng lượng cho tàu bị cắt hoàn toàn, hệ thống thủy lực cũng ngừng hoạt động khi Komsomolets đang ở độ sâu 152 m. Con tàu không thể quay chân vịt và điều chỉnh cánh lái để nổi lên mặt nước. Đại tá Vanin ra lệnh tiến hành quy trình nổi khẩn cấp, bơm khí áp suất cao vào các bể dằn và phát tín hiệu cầu cứu về sở chỉ huy.
Tuy nhiên, nổi lên được mặt nước không có nghĩa là Komsomolets đã hết nguy hiểm. Lúc 11h21, ngọn lửa đạt nhiệt độ 1.000 độ C và lan theo hệ thống dây cáp đến tất cả các khoang. Toàn bộ thủy thủ đoàn đều tham gia cứu tàu và phải đeo mặt nạ nối với hệ thống cung cấp không khí khẩn cấp. Tuy nhiên, khí độc không mùi CO nhiễm vào hệ thống dưỡng khí khiến nhiều người bị chóng mặt.
Vanin tiếp tục đánh tín hiệu cầu cứu về Hạm đội Phương Bắc. Sở chỉ huy nhận được bức điện mật không đầy đủ lúc 11h41, họ chỉ biết một tàu ngầm Liên Xô bị mắc kẹt ở đâu đó và không quân được báo động.
12h19 chiều, đại tá Vanin bỏ qua giao thức bảo mật và gửi điện thông báo rõ tên, địa điểm và tình hình khẩn cấp trên tàu. Tư lệnh Hạm đội Phương Bắc ra lệnh áp dụng mọi biện pháp để cứu thủy thủ đoàn, kể cả kêu gọi hỗ trợ từ Na Uy, đồng thời điều động ba tàu hoạt động cách Komsomolets hơn 100 km đến ứng cứu.
14h40, máy bay cứu hộ phát hiện tàu ngầm đang nổi lập lờ trên mặt nước. Các thủy thủ cho rằng họ sẽ sớm được cứu nên nhiều người không mặc áo giữ nhiệt, dù nước biển lạnh 2 độ C có thể khiến họ tử vong trong vòng 15 phút.
Không lâu sau, gió và sóng biển cao tới 1,2 m buộc các thủy thủ đứng trên boong phải bám vào bề mặt trơn trượt. Hầu hết thủy thủ đều trèo ra bên ngoài vì không chịu nổi khói bên trong tàu, dù lực lượng cứu hộ cần ít nhất 3 giờ nữa mới tới nơi.
Nỗ lực cứu tàu không thành công và Komsomolets bắt đầu chìm lúc 16h30. Đại tá Vanin phát tín hiệu cầu cứu lần cuối qua vô tuyến, sau đó ra lệnh cho thủy thủ đoàn bỏ tàu.
Lúc 17h, hai xuồng cứu hộ được bơm hơi và thả ra từ mũi tàu để các thủy thủ trèo lên, còn Vanin quyết định trở lại bên trong để tìm kiếm những người còn lại. "Hạm trưởng trèo lên boong và có thể dễ dàng nhảy xuống nước như chúng tôi. Dù vậy, ông ấy nhìn lên trời và trèo xuống để hỗ trợ những người vẫn còn mắc kẹt trong con tàu đang chìm", Kalinin nhớ lại.
6 người trong tàu vẫn còn tia hy vọng là kén thoát hiểm ở đài chỉ huy, tính năng không có trên các tàu ngầm Mỹ. Vanin dẫn họ tới vị trí kén, nhưng một người bị lạc trong làn khói dày đặc và không thể vào trong, bất chấp nỗ lực mở cửa của những người còn lại.
Chiếc kén bắn ra khỏi Komsomolets và nổi lên cùng 5 người bên trong khi vỏ tàu bị áp lực nước dưới đáy biển ép nát. Việc nổi lên quá nhanh khiến kén bị giảm áp đột ngột và phần nắp bung mạnh ra ngoài. Hai người thiệt mạng tại chỗ, đại tá Vanin và một người khác bất tỉnh. Nước biển nhanh chóng tràn vào kén, làm nó chìm xuống cùng 4 người bên trong. Chỉ có thủy thủ Slyusarenko kịp thoát ra ngoài.
Những người bỏ tàu trước đó cũng chưa thoát khỏi nguy hiểm khi xuồng cứu hộ bị lật hoặc nằm ngoài tầm với. Máy bay cứu hộ thả nhiều bè cứu hộ cỡ nhỏ, nhưng nhiều thủy thủ đã tử vong do hạ thân nhiệt và chết đuối trước đó.
Khoảng hơn 18h, tàu chế biến hải sản B-64/10 Aleksey Khlobystov có mặt tại hiện trường và cứu được 30 thủy thủ, nhưng ba người trong số đó tử vong vì hít phải khí độc và nhiễm lạnh. Tổng cộng 42 sĩ quan và thủy thủ thiệt mạng trong sự cố, tàu ngầm K-278 Komsomolets chìm xuống độ sâu 1.680 m với hai quả tên lửa hạt nhân.
Chính phủ Nga từng có kế hoạch trục vớt Komsomolets nhưng phải từ bỏ khi nguy cơ xảy ra thảm họa rò rỉ phóng xạ là quá lớn. Moskva đã dùng các biện pháp đặc biệt để bao kín con tàu với hy vọng biến nó thành một nấm mồ titan khổng lồ dưới đáy biển Barents, nhưng có vẻ như cách thức này không ngăn cản được phóng xạ rò rỉ khỏi xác chiếc tàu ngầm xấu số.
Vũ Anh (Theo National Interest)