Tàu sân bay ra đời ban đầu để phục vụ mục đích phòng thủ đường không cho các hạm đội trên biển, nhưng vai trò này đã thay đổi hoàn toàn trong Thế chiến II, khi các không đoàn của chúng trở thành mũi nhọn tiến công của lực lượng hải quân các nước trong những trận đối đầu trên biển.
Vai trò này dần phai nhạt sau Thế chiến II, khi Liên Xô, đối thủ chính của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh, không hoàn toàn là một cường quốc hải quân. Dù vậy, Mỹ vẫn liên tục phát triển hạm đội tàu sân bay nhằm bảo đảm khả năng làm chủ bầu trời ở mọi mặt trận.
Hai nhóm tàu sân bay Mỹ diễn tập trên Địa Trung Hải hồi tháng 4. Video: US Navy.
Học thuyết tác chiến của Mỹ yêu cầu hải quân nước này duy trì 11 siêu tàu sân bay, cho phép Washington triển khai sức mạnh quân sự với mức độ không nước nào làm được. Nhiều cường quốc quân sự cũng cố gắng xây dựng lực lượng hàng không mẫu hạm, dù kích thước và năng lực của chúng thua kém nhiều so với siêu tàu sân bay Mỹ.
Anh đã chế tạo hai siêu tàu sân bay lớp Queen Elizabeth, Trung Quốc có kế hoạch biên chế ít nhất 6 chiếc vào năm 2035, Ấn Độ cũng nuôi tham vọng sở hữu ba tàu sân bay. Hải quân Nga cố gắng sửa chữa tàu Đô đốc Kuznetsov liên tục gặp sự cố để sớm đưa nó trở lại hoạt động, trong khi Nhật Bản vừa công bố kế hoạch hoán cải hai chiến hạm lớp Izumo thành tàu sân bay hoàn chỉnh.
Xu thế này diễn ra trong bối cảnh tàu sân bay ngày càng phải đối diện với nhiều mối đe dọa, nhất là từ tàu ngầm và tên lửa chống hạm. Để bảo đảm an toàn trước các tên lửa chống hạm bố trí trên bờ có tầm bắn lớn, các tàu sân bay ngày càng phải hoạt động xa bờ, khiến mức độ hữu dụng của chúng suy giảm.
"Trái tim của hạm đội Mỹ có nguy cơ đi vào vết xe đổ của những thiết giáp hạm từng bị chúng thay thế. Đó là đắt đỏ, cồng kềnh, dễ tổn thương, không còn phù hợp với các xung đột hiện tại và tương lai", đại tá hải quân về hưu Jerry Hendrix thừa nhận.
Siêu tàu sân bay USS Gerald R. Ford có mức giá 13 tỷ USD, trở thành chiến hạm đắt nhất lịch sử thế giới khi được biên chế vào năm 2017. Số tiền này bằng hai phần ba ngân sách quốc phòng của Iran trong năm 2018 và cao gấp đôi chi phí chế tạo USS George H.W. Bush, chiếc cuối cùng thuộc lớp siêu tàu sân bay Nimitz.
Mỗi tàu sân bay lớp Nitmitz có thủy thủ đoàn hơn 6.000 người, gấp đôi quân số của hải quân Đan Mạch. Chi phí vận hành và bảo dưỡng hàng năm của một chiếc Nimitz là 726 triệu USD, chưa kể tới khoản tiền 3-5 tỷ USD để mua hàng chục máy bay cho không đoàn trên hạm và ngân sách 1,8 tỷ USD/năm để bảo đảm hoạt động cho chúng.

Ba nhóm tàu sân bay Mỹ phô diễn sức mạnh gần bán đảo Triều Tiên cuối năm 2017. Ảnh: US Navy.
Ngay cả những tàu sân bay cỡ nhỏ hơn cũng chiếm một khoản lớn trong ngân sách quốc phòng các nước. USS Gerald R. Ford chiếm chưa đầy 2% chi phí quân sự của Mỹ, trong khi con số này là 15% với chiếc HMS Queen Elizabeth trong biên chế Anh.
Tướng David Richards, tham mưu trưởng quân đội Anh giai đoạn 2010-2013, từng hối thúc London hủy dự án đóng HMS Prince of Wales, chiếc kế tiếp HMS Queen Elizabeth. "Chúng ta có thể chế tạo 5 tàu hộ vệ tên lửa tối tân với cùng mức giá đó", tướng Richards cho hay, đề cập tới đơn giá hơn 5 tỷ USD cho chiếc Prince of Wales.
Những thống kê trên còn chưa tính tới chi phí vận hành lực lượng hộ tống tàu sân bay gồm các tàu tuần dương, khu trục hạm, hộ vệ hạm và tàu ngầm.
Tàu sân bay đắt đỏ nhưng lại rất dễ tổn thương khi nổ ra xung đột giữa các cường quốc. Một tàu ngầm diesel-điện Type-039 Trung Quốc từng bám đuôi hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk trên biển Hoa Đông mà không bị phát hiện cho đến khi nó chủ động nổi lên cách tàu sân bay Mỹ chưa đầy 8 km.
"Áp sát như vậy trong thời chiến sẽ khó hơn nhiều, do nhóm tàu sân bay Mỹ sẽ nâng cao cảnh giác. Tuy nhiên, Bắc Kinh đang tăng cường đáng kể năng lực tấn công tàu ngầm để đối phó", tác giả Michael Houtz viết trên tờ Economist.
Phân tích của Viện nghiên cứu RAND có trụ sở tại Mỹ cho thấy "cơ hội tấn công", tức số lần tàu ngầm Trung Quốc có thể vào vị trí công kích tàu sân bay Mỹ trong vòng 7 ngày, đã tăng gấp 10 lần trong giai đoạn 1996-2010.
Tàu ngầm không phải mối đe dọa duy nhất với hàng không mẫu hạm ngày nay. Nga và Trung Quốc đang đi đầu trong phát triển những tên lửa được ví như "sát thủ tàu sân bay", có thể phóng từ mặt đất, máy bay, tàu ngầm hoặc tàu mặt nước.
Moskva tập trung vào tên lửa hành trình siêu thanh và cận âm với tầm bắn từ hàng trăm đến hàng nghìn km, trong khi Bắc Kinh lại theo đuổi các dự án tên lửa đạn đạo chống hạm với tầm bắn 1.500 km như DF-21D. "Trung Quốc có thể chế tạo 1.200 quả DF-21D với chi phí của một tàu sân bay Mỹ", đại tá Hendrix nhận xét.
Nghiên cứu của Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách Mỹ (CSBA) cho thấy các tàu sân bay Mỹ phải hoạt động cách bờ biển trên 1.900 km nếu đối đầu với "những đối thủ ngang tầm" như Trung Quốc. Mỗi tàu có nguy cơ hứng chịu 2.000 đầu đạn các loại nếu tiến vào gần hơn.

Nhóm tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh huấn luyện trên Thái Bình Dương năm 2018. Ảnh: SCMP.
Dù vậy, các cường quốc hải quân vẫn quyết đầu tư cho hàng không mẫu hạm, do chúng vẫn chưa thực sự lỗi thời trong tác chiến hiện đại. "Nhiều công nghệ 'sát thủ tàu sân bay' vẫn chưa chứng tỏ hiệu quả thực tế, khả năng theo dõi và bám bắt hàng không mẫu hạm hiện nay cũng rất giới hạn", Nick Childs, chuyên gia hải quân tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) ở Anh, đánh giá.
Tàu sân bay vẫn phù hợp trong những xung đột với các quốc gia thua kém về mặt quân sự. Các tàu ngầm và tàu mặt nước đảm nhận không kích đối phương bằng tên lửa hành trình, trong khi không đoàn trên hạm làm nhiệm vụ phòng thủ tầm xa, làm chủ không phận, trinh sát, đánh giá hiệu quả đòn đánh và yểm trợ mặt đất.
"Hàng không mẫu hạm là hiện thân của sức mạnh quân sự, cho thấy quốc gia sở hữu là cường quốc hải quân và cũng thể hiện ý chí của họ tại một khu vực nhất định", chuyên gia quân sự Michael Koffman tại Nga nêu quan điểm.
"Bắc Kinh có lẽ hiểu rõ nhất biện pháp ngoại giao pháo hạm bằng tàu sân bay", Houtz viết thêm. Năm 1996, quân đội Trung Quốc đại lục tập trận quy mô lớn, phóng nhiều tên lửa về phía eo biển Đài Loan khi người dân hòn đảo lần đầu trực tiếp bầu ra người đứng đầu chính quyền.
Mỹ nhanh chóng đáp trả khi điều hai nhóm tác chiến tàu sân bay áp sát đảo Đài Loan và cảnh báo về "hậu quả nghiêm trọng" nếu Bắc Kinh dùng biện pháp quân sự tấn công hòn đảo. Trung Quốc nhận ra họ không có vũ khí nào chế áp được tàu sân bay Mỹ, dù chúng hoạt động không xa bờ biển và phải thừa nhận rằng không thể ngăn Washington hỗ trợ Đài Bắc khi xung đột nổ ra.
Sự kiện khiến các lãnh đạo chính trị, quân sự Trung Quốc nhận ra rằng mình sẽ luôn ở "chiếu dưới" tại các vùng biển lớn nếu không có tàu sân bay chống lại sự áp đảo của Mỹ. Điều đó thúc đẩy Bắc Kinh cải cách, hiện đại hóa hải quân một cách mạnh mẽ nhằm thu hẹp khoảng cách với Washington.
Vũ Anh (Theo Economist)