Khói bùng lên sau khi quả bom của Mỹ thả xuống Nagasaki hôm 9/8/1945. |
Các nhà sử học chưa bao giờ hoàn toàn nhất trí với nhau về câu trả lời. Và con cái của những người lính Mỹ đáng lẽ sẽ được đưa tới Nhật chiến đấu năm 1945 vẫn tự hỏi liệu họ có phải biết ơn vì quả bom đã được thả xuống Hiroshima hôm 6/8 và ba ngày sau đó xuống Nagasaki hay không.
Thủ tướng Anh Winston Churchill lúc đó đã ví hai vụ ném bom giống như "Cơn thịnh nộ thứ hai của Chúa".
Tổng thống Mỹ Harry Truman cũng thừa nhận về sức mạnh của nó. Khi Truman nhận được thông báo về việc thử nghiệm thành công bom nguyên tử và ra quyết định sử dụng, ông viết trong nhật ký: "Chúng ta đã chế tạo ra một quả bom kinh hoàng nhất trong lịch sử thế giới. Nó như biển lửa tàn phá ở kỷ Lưỡng Hà, sau thời của con thuyền thần kỳ của Noah".
Nhân loại từ đó tiếp tục bị chia rẽ trong vấn đề tại sao quyết định trên lại được đưa ra. Quan điểm chính thống của Mỹ cho rằng Truman đã ném bom bởi nếu không thì chỉ có cách duy nhất là đổ bộ xâm lược Nhật Bản.
Điều khiến Truman bận tâm nhất lúc đó là số thương vong của quân đội Mỹ. Truman viết: "Tôi đã hỏi tướng Marshall nếu phải đưa lính tới Tokyo và các khu vực khác thì tổn thất sẽ là thế nào. Ông ấy trả lời rằng xâm lược Nhật sẽ khiến khoảng 250.000 lính Mỹ thiệt mạng".
Một phần Hirosima đổ nát sau khi bị đánh bom. |
Trong cuốn tiểu sử Truman, David McCullough cho hay kế hoạch về một cuộc xâm lược là có thực. "Truman đã trao quyền cho Tham mưu trưởng liên quân điều động 1 triệu quân cho vụ tấn công cuối cùng vào Nhật. Trong khi đó, Nhật có khoảng 2,5 triệu lính trên các hòn đảo của mình", ông viết.
Tuy nhiên câu hỏi vẫn tồn tại là liệu Mỹ đã cố gắng hết sức thương thuyết Nhật đầu hàng? Quan điểm của Đồng minh là Nhật phải đầu hàng vô điều kiện giống như Đức. Cựu đại sứ của Mỹ tại Tokyo Joseph Grew cho rằng Đồng minh đáng lẽ phải khiến cho Nhật tin rằng họ có thể duy trì nền quân chủ nếu đầu hàng. Điều đó sẽ tạo điều kiện để thương lượng tiến triển và có thể dẫn tới thành công.
Song, trong tuyên bố đưa ra ở Potsdam, quân Đồng minh chỉ khẳng định, dân Nhật có quyền chọn cho họ một chính phủ "hoà bình và có trách nhiệm". Điều đó cũng có nghĩa là Nhật có quyền giữ lại chế độ quân chủ, nhưng lời lẽ của bản tuyên bố không nói thẳng ra như vậy. Vì thế, tuyên bố Potsdam đã bị chính phủ Nhật lờ đi bởi trong nội bộ của họ cũng có những ý kiến trái ngược. Thành phần ủng hộ đàm phán cũng không đồng ý với nhiều điều kiện, trong khi đó những người có quan điểm cứng rắn trong Đồng minh cứ kéo dài thêm danh sách yêu cầu.
Trong cuốn sách Racing the Enemy, vừa mới xuất bản, giáo sư sử học và là giám đốc trung tâm nghiên cứu Chiến tranh Lạnh thuộc Đại học California Tsuyoshi Hasegawa đã đưa ra giải thích đối với những sự kiện này. Ông chỉ trích cả Stalin và Truman vì đã không cố gắng để khiến Nhật đầu hàng qua thương thuyết. Ông còn khẳng định chính việc Liên Xô tham gia cuộc chiến chống Nhật khiến Tokyo lo lắng và quyết định đầu hàng.
Hasegawa cho rằng Stalin từ chối những đề xuất hoà bình do Nhật đưa ra bởi ông muốn ghi điểm từ việc tham chiến, còn người Mỹ không chấp nhận các đề xuất hoà bình vì họ không thích.
Nhà sử học này cho rằng Truman từ chối sửa đổi yêu cầu "đầu hàng vô điều kiện" vì ông muốn trả thù cho vụ Trân Châu Cảng. Từ đó, Hasegawa khẳng định, các cơ hội đã bị đánh mất. Ý tưởng rằng chỉ có đánh bom nguyên tử mới có thể chấm dứt được chiến tranh đã được đưa ra để "vuốt ve lòng tự ái của Truman và người Mỹ".
Hasegawa đưa ra luận điểm rằng lãnh đạo Nhật không quá quan tâm tới những thiệt hại do những quả bom Mỹ thả xuống bởi họ cũng sẽ chịu tổn thất tương tự với bom thông thường của Washington, thậm chí là thiệt hại nặng hơn. Theo ông, chính việc Hồng quân tham chiến mới khiến Nhật hoảng sợ. Họ chịu thua vì không thể chấp nhận được việc quân đội của Liên Xô tiến vào lãnh thổ và chiếm đóng một phần đất đai của họ.
Quan điểm trên hoàn toàn trái ngược với cái nhìn được nhà sử học của Mỹ Richard B Frank đưa ra trong cuốn sách Downfall phát hành năm 1999. Ông khẳng định: 'Sẽ chỉ là ảo tưởng nếu cho rằng chiến tranh có thể kết thúc trước khi Mỹ dùng tới bom nguyên tử".
Trong cuốn sách, ông nhắc tới nỗ lực thực hiện đàm phán ở Matxcơva của Ngoại trưởng Nhật Shigenori Togo. Theo ông, đây là một nỗ lực yếu ớt và không chắc chắn mà ngay cả đại sứ của Nhật ở Matxcơva Naotake Sato chế nhạo. Sato đã gửi hàng loạt bức điện tới cấp trên của ông, chỉ ra sự mơ hồ trong đề xuất của Nhật. Người Mỹ đã biết đến sự mơ hồ này sau khi đọc những trao đổi giữa Togo và Sato.
Winston Churchill, Harry Truman và Joseph Stalin tại hội nghị ở Potsdam năm 1945. |
Những tranh cãi về vấn đề này vẫn tiếp tục. Tại một hội nghị do Greenpeace tổ chức tại London đánh dấu 60 năm Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima, Giáo sư Mark Selden thuộc Đại học Binghamton ở New York cho rằng có những toan tính chiến lược đằng sau quyết định của Truman.
"Có những người tin rằng thả quả bom sẽ thúc đẩy chiến tranh chóng kết thúc, và như vậy vị thế của Mỹ ở châu Á được nâng lên", ông nói. "Đây thực chất là một cuộc chạy đua với Nga. Mục đích của việc Mỹ thả bom là để thông báo với thế giới về sự lớn mạnh của Washington. Nó đồng thời ngăn chặn việc Nga đưa quân xâm chiếm Nhật, hoặc cho dù nếu việc đổ bổ Nhật xảy ra thì Mỹ sẽ là lực lượng dẫn đầu chiến dịch đó".
David McCullough lại muốn tìm một sự giải thích thực tế đối với động cơ của Truman.
"Làm thế nào mà một vị tổng thống, hoặc những người có trách nhiệm, có thể trả lời nhân dân Mỹ... nếu sau khi mất một biển máu để xâm chiếm Nhật Bản, người Mỹ mới biết rằng thứ vũ khí có khả năng chấm dứt cuộc chiến đã được chế tạo xong từ giữa mùa hè và không được sử dụng?".
Hải Ninh (theo BBC)