Trên X ngày 13/4, con trai của nhà văn - Álvaro Vargas Llosa - cho biết cha qua đời trong vòng tay của gia đình tại thủ đô Lima, Peru. "Sự ra đi của ông sẽ khiến người thân, bạn bè và độc giả đau lòng nhưng chúng tôi hy vọng mọi người, cũng như chúng tôi, cảm thấy an ủi vì ông đã có một cuộc đời dài, phong phú, đầy thành tựu, cũng như để lại nhiều tác phẩm còn mãi với đời", anh viết.
Đại diện gia đình chưa tiết lộ nguyên nhân ông qua đời, nhưng cho biết tang lễ sẽ tổ chức riêng tư. Di hài nhà văn sẽ được hỏa táng theo nguyện vọng của ông.
Tổng thống Peru - bà Dina Ercilia Boluarte Zegarra - gửi lời tiễn biệt văn hào qua trang cá nhân: "Bộ óc thiên tài và kho tàng văn học đồ sộ của ông mãi là di sản vĩnh cửu cho những thế hệ tiếp theo. Chúng tôi gửi lời chia buồn sâu sắc đến gia đình, bạn bè ông và nền văn học của thế giới". Bà kết thúc bài đăng bằng dòng chữ: "Yên nghỉ nhé, người con Peru lừng lẫy muôn đời".

Nhà văn Mario Vargas Llosa trên tờ Guardian năm 2012. Ảnh: Guardian
Mario Vargas Llosa tên đầy đủ là Jorge Mario Pedro Vargas Llosa, sinh năm 1936 tại Arequipa, Peru. Ông nổi tiếng là nhà văn, nhà báo, giảng viên, nhà tiểu luận có ảnh hưởng rộng lớn đến văn đàn Mỹ Latin thế kỷ 20. Nhiều nhà phê bình đánh giá Vargas Llosa và tác giả Trăm năm cô đơn - Garcia Marquez - là hai nhân vật vĩ đại, góp phần hình thành nên Làn sóng Mỹ Latin trong văn học với khả năng tác động mạnh mẽ đến thế giới.
Theo CNN, Vargas Llosa ra mắt tác phẩm đầu tiên - vở kịch The Escape of the Inca - năm 1952, khi mới 16 tuổi. Từ đó, ông sớm trở thành cây bút quen thuộc của các tờ báo văn học Peru, theo học trường đại học Madrid. Năm 1958, ông đến Paris, đánh dấu sự mở đầu cho 16 năm tha hương. Vargas Llosa từng sống ở Madrid, Barcelona và London suốt thời gian đó. Năm 1974, ông quay về Lima.
Nhà văn nổi tiếng từ thập niên 1960 sau khi xuất bản tiểu thuyết đầu tay The Time of the Hero (1963) tại Tây Ban Nha, tiếp tục gây tiếng vang với The Green House (1966), Conversation in the Cathedral (1969), The War of the End of the World (1981). Một số tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành các bộ phim nổi tiếng như Tune in Tomorrow (1990) - dựa trên tác phẩm Aunt Julia and the Scriptwriter (1977), do Barbara Hershey và Keanu Reeves đóng chính.

Bìa bản dịch tiếng Việt của "Thư gửi nhà tiểu thuyết trẻ" của Mario Vargas Llosa. Ảnh: Nhã Nam
Theo Guardian, sự nghiệp của Mario Vargas Llosa bắt đầu mang đậm màu sắc chính trị khi danh tiếng ngày càng lớn. Năm 1990, ông tranh cử tổng thống Peru nhưng thất bại. Năm 1993, ông rời bỏ quê hương và nhập quốc tịch Tây Ban Nha - quyết định này khiến nhiều người Peru tức giận. Một năm sau đó, ông giành giải thưởng văn học Cervantes của Tây Ban Nha.
Năm 2010, Vargas Llosa trở thành người Peru đầu tiên nhận giải thưởng Nobel Văn học nhờ những trang viết "tái hiện các cấu trúc quyền lực và khả năng thể hiện những hình ảnh sắc nét về sự kháng cự, sự nổi loạn và thất bại của mỗi cá nhân". Trò chuyện với ban tổ chức lễ trao giải, ông nói về mối quan hệ giữa văn học và chính trị, nhận xét chúng có liên hệ với nhau. "Tôi cho rằng văn chương không chỉ là niềm vui, còn là một công cụ rất quan trọng để đưa con người tiến về phía trước", ông nhận định.
Cũng trong bài phỏng vấn, nhà văn tiết lộ phong cách sống, làm việc của văn hào Pháp Gustave Flaubert truyền cảm hứng cho ông. Theo Vargas Llosa, Flaubert không phải thiên tài bẩm sinh nhưng xây dựng thành tựu nhờ những nỗ lực có tính kỷ luật, sự kiên trì và cam kết với bản thân.

Nhà vua Carl XVI Gustaf của Thụy Điển trao huy chương Nobel cho Mario Vargas Llosa năm 2010. Ảnh: Reuters
Sau Nobel, Llosa tiếp tục phát hành bốn tiểu thuyết mới, tích cực lên tiếng các vấn đề chính trị. Tháng 10/2023, ông ra mắt tác phẩm cuối cùng Le dedico mi silencio (Tặng người sự im lặng của tôi) và tuyên bố ngừng sáng tác. Trên tờ La Vanguardia cùng năm, ông nói: "Dù là người lạc quan, tôi không nghĩ mình còn sống đủ lâu để viết tiếp truyện mới, nhất là khi tôi phải mất từ ba đến bốn năm để hoàn thành. Nhưng tôi không bao giờ ngừng làm việc, hy vọng đủ sức để tiếp tục đến hết đời".
Về đời tư, nhà văn trải qua hai cuộc hôn nhân. Ông kết hôn vợ đầu tiên - nhà văn Julia Urquidi Illanes - năm 1955, ly hôn sau chín năm chung sống. Cả hai có với nhau ba người con gồm Álvaro, Gonzalo và Morgana. Năm 1965, ông đi bước nữa với vợ thứ hai, bà Patricia Llosa, không có con chung. Sau 50 năm bên nhau, ông chia tay bà để yêu người dẫn chương trình, nhà hoạt động xã hội Isabel Preysler, kém ông 15 tuổi. Năm 2022, mối tình này cũng chấm dứt.
Phương Thảo (theo CNN, Guardian)