Kể từ khi Đài Loan đi vào tiến trình dân chủ hoá, mỗi kỳ bầu cử trên đảo quốc này diễn ra là sóng gió lại nổi lên giữa hai bờ eo biển chia tách Đài Loan và Trung Quốc lục địa. Năm 1996 rồi năm 2000, Bắc Kinh đã phản ứng quyết liệt trước những đề nghị mang tính “ly khai” của các ứng cử viên theo xu hướng độc lập. Năm bầu cử 2004 này không chỉ là sự lặp lại những gì diễn ra trong các năm bầu cử trước, bởi căng thẳng giữa hai bờ eo biển Đài Loan bùng phát mạnh mẽ sau những tuyên bố mang tính “ly khai” của ông Trần Thuỷ Biển về trưng cầu dân ý.
Nhằm hướng dư luận bất lợi trong nước ra khỏi những yếu kém trong lĩnh vực kinh tế, ông Trần Thuỷ Biển đã lựa chọn vấn đề quy chế hiến định của Đài Loan và mối quan hệ giữa đảo quốc với Đại lục như là trong tâm của chiến dịch vận động tranh cử cho một nhiệm kỳ mới. Ông Trần đề nghị tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý cho phép thay đổi Hiến pháp Đài Loan và xác định lại nền tảng mối quan hệ với Trung Quốc. Thực chất của đề nghị này là thay đổi thực trạng vấn đề Đài Loan và khẳng định hơn nữa độc lập của hòn đảo. Động thái chính trị này của ông Trần nhằm vào ba mục tiêu chính : (1) thúc đẩy Đài Loan đi đến độc lập chính thức, (2) kích thích một phản ứng tiêu cực cứng rắn từ phía Trung Quốc đại lục nhằm tìm kiếm phiếu bầu từ phía người dân Đài Loan có xu hướng độc lập và lo ngại mối đe doạ an ninh từ phía Lục địa, và cuối cùng (3) đánh lạc hướng dư luận Đài Loan đối với những yếu kém của chính quyền trong lĩnh vực kinh tế.
Ngay từ năm 2002, Trần Thuỷ Biển đã công khai khẳng định “ở mỗi bên bờ eo biển Đài Loan có một quốc gia”. Mặc dù ngay sau đó các giới chức Đài Bắc tìm cách giảm nhẹ tính chất nghiêm trọng của tuyên bố này bằng việc giải thích rằng tuyên bố của ông Trần ám chỉ rằng các chính quyền ở hai bên bờ eo biển đều có chủ quyền ngang nhau và đây không phải một tuyên bố nhằm đi đến độc lập của đảo quốc, lãnh thổ trên thực tế chỉ là một bộ phận của Đế chế Trung Hoa trong một thời gian ngắn.
Năm 1949, chính quyền nhân dân được thiết lập trên Lục địa, buộc chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Đài Loan. Mặc dù ở thế đối đầu, cả hai bên đều có chung một lập trường thống nhất: một nước Trung Hoa. Bắc Kinh coi Đài Loan là một tỉnh, một bộ phận không thể tách rời của Trung Quốc dưới sự chiếm đóng của một chính phủ chống đối và khẳng định chủ quyền tuyệt đối và hoàn toàn của CHND Trung Hoa đối với hòn đảo này. Ở bên kia, chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Đài Bắc cũng khẳng định tính thống nhất của nước Trung Hoa, tức Đài Loan và Lục địa là hai bộ phận không thể tách rời và chủ quyền của Đài Bắc được áp dụng trên toàn lãnh thổ Trung Hoa lục địa và hòn đảo.
Tuyên bố của Trần Thuỷ Biển thực chất là bước đột phá trong quan niệm về vấn đề Đài Loan trong quan hệ giữa hai bờ eo biển. Đài Loan có thể sẽ từ bỏ chủ quyền đối với Lục địa và ngược lại Lục địa cũng không có chủ quyền đối với đảo quốc. Nếu có chuyện thống nhất thì tiến trình này phải dựa trên đàm phán bình đẳng giữa hai thực thể nhà nước độc lập và có chủ quyền riêng biệt như trường hợp hai nước CHLB Đức và CHDC Đức trước đây. Để điều này được thực hiện, một sửa đổi cơ bản trong Hiến pháp hay thậm chí một Hiến pháp mới sẽ được soạn thảo thay thế cho văn bản cũ được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản “một nước Trung Hoa”. Và điều này sẽ được thực hiện trước hết thông qua một cuộc trưng cầu dân ý, một đảm bảo cho tính hợp hiến của mọi sửa đổi đối với nguyên tắc quan trọng nhất của Hiến pháp. Tháng 11/2003, một đề nghị như vậy đã chính thức được ông Trần Thuỷ Biển đưa ra thông qua tại Nghị viện nhằm chuẩn bị cho chiến dịch chinh phục nhiệm kỳ thứ hai.
Cho đến tận thời điểm đó, có thể nói phản ứng của Bắc Kinh vẫn luôn ở mức hạn chế. Giới chức Lục địa hẳn đã nhận thức được bài học sau những cuộc bầu cử ở các năm 1996 và 2000. Mọi phản ứng quá mạnh mẽ từ phía Đại lục chỉ làm hâm nóng lên tinh thần độc lập của người dân đảo quốc vốn có nhiều khác biệt với Lục địa và mang lại nhiều thuận lợi hơn cho những lực lượng có xu hướng độc lập. Thế nhưng khi Trần Thuỷ Biển đưa ra kế hoạch thay thế Hiến pháp cũ dựa trên nguyên tắc “một Trung Quốc” thông qua trưng cầu dân ý và được Nghị viện Đài Loan thông qua, giới chức Bắc Kinh đã không thể còn giữ được sự kiềm chế. Bắc Kinh buộc phải phản ứng mạnh mẽ trước hết nhằm thoả mãn chủ nghĩa dân tộc của người dân Lục địa, một nền tảng cơ bản của chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay. Lãnh đạo Trung Quốc khẳng định chính sách của Trung Quốc đối với Đài Loan dựa trên nguyên tắc “một nước Trung Quốc” là nhất quán. Mọi tuyên bố độc lập của Đài Bắc sẽ được Bắc Kinh nhìn nhận như một lời tuyên chiến và Bắc Kinh sẽ buộc phải sử dụng vũ lực nhằm bảo vệ sự thống nhất và chủ quyền của Lục địa đối với “tỉnh ly khai Đài Loan”.
Cho dù mới đây người đứng đầu chính quyền Đài Loan Trần Thuỷ Biển tìm cách làm dịu tình hình bằng tuyên bố về khả năng thống nhất với Đại lục và Uỷ ban bầu cử tuyên bố tách riêng trưng cầu dân ý và bầu cử, Bắc Kinh vẫn tin rằng Đài Loan sẽ đi đến một tuyên bố độc lập mang tính hình thức.
Nếu như những phản ứng từ phía Bắc Kinh cho thấy một thái độ cẩn trọng của Đại lục thì điều này không đồng nghĩa với ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm nay ít nghiêm trọng hơn các lần khủng hoảng trước. Ngược với những phát ngôn tương đối kiềm chế, những động thái ngoại giao của Bắc Kinh cho thấy Đại lục đang chuẩn bị ráo riết cho mọi leo thang có thể diễn ra khi tình hình có những biến đổi mới. Bằng những bước đi và những con bài của mình, Bắc Kinh đã đặt Trần Thuỷ Biển vào vị trí bị lên án trên trường quốc tế khi cả Mỹ, Pháp và nhiều cường quốc khác đều tuyên bố không đồng tình với mọi tuyên bố độc lập của Đài Loan. Trong cuộc họp báo chung với Thủ tướng Trung Quốc, Tổng thống Mỹ tuyên bố : “Những bình luận và những hành động của nhà lãnh đạo Đài Loan cho thấy rằng ông ta muốn đơn phương quyết định thay đổi nguyên trạng. Chúng tôi chống lại quyết định như vậy”. Thậm chí đi ngược lại nguyên tắc dân chủ và không can thiệp truyền thống, Tổng thống Pháp trong tuyên bố sau cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tại Paris đã ám chỉ kế hoạch trưng cầu dân ý của Đài Loan là một yếu tố bất ổn định đối với khu vực.
Về mặt quân sự, không ầm ĩ như những lần khủng hoảng trước, nhưng qua những lần triển khai trong các năm 1996, 2000 và những diễn tập gần đây nhất, Trung Quốc lục địa dường như sẵn sàng tạo một sức ép đáng kể buộc đảo quốc Đài Loan trở lại với thực trạng mà cả Trung Quốc và các cường quốc liên quan đều không muốn thấy bất cứ sự thay đổi nào. Và chắc chắn người Đài Loan sẽ phải cảm nhận được sức ép này từ bên kia bờ eo biển cho dù sóng gió có nổi lên ngay trong ngày bỏ phiếu hay trước đó hay không.
Vũ Hồng Hà