Trong Thế chiến I, quân đội Đức muốn công phá thủ đô Paris của Pháp nhưng không thể xuyên thủng tuyến phòng ngự đối phương để đưa các loại pháo có sẵn trong biên chế vào tầm bắn hiệu quả. Do đó, họ đã phát triển siêu pháo có tầm bắn xa nhất lịch sử thế giới, đặt tên nó là "pháo Paris" để phục vụ mục đích trên.
Siêu pháo Paris được Đức biên chế tháng 3-8/1918. Không ai biết rõ tính năng của mẫu pháo này trong suốt hàng chục năm, bởi nó bị phá hủy sau khi Đức rút quân, tất cả những gì còn sót lại là chỉ là cấu trúc dùng để cố định pháo. Đến thập niên 1980, người ta mới biết rõ chi tiết của nó nhờ những ghi chép của tiến sĩ Fritz Rausenberger, người phụ trách phát triển pháo Paris tại tập đoàn Krupp.
Siêu pháo Paris nặng 256 tấn, dài 34 m, đạt tầm bắn hiệu quả tới 130 km, được đánh giá là khẩu pháo bắn xa nhất lịch sử. Để so sánh, pháo M777A2 cỡ nòng 155 mm hiện nay của lục quân Mỹ có tầm bắn tối đa khoảng 30 km. Phiên bản tăng tầm ERCA đang được phát triển có tầm bắn hơn 70 km.
Tập đoàn Krupp của Đức đã chế tạo tổng cộng 7 nòng cho khẩu siêu pháo này. Chúng được tận dùng từ nòng pháo hải quân cỡ 380 mm đã qua sử dụng và nhồi ống thép bên trong để giảm cỡ nòng xuống còn 210 mm. Một đoạn nòng trơn dài 12 m được gắn ở đầu nòng pháo để cải thiện độ chính xác, giảm sự tản mát của các loại đạn.
Toàn bộ cụm nòng pháo được gia cố để ngăn nó chúi xuống do quá dài và nặng, cũng như chống giật khi bắn. Khối lượng lớn của pháo Paris buộc quân đội Đức lắp nó trên một phương tiện vận chuyển đặc biệt bằng đường sắt, trước khi gắn vào một ụ pháo cố định để khai hỏa.
Siêu pháo Paris được vận hành bởi 80 thủy thủ hải quân. Đế quốc Đức còn bố trí một số khẩu đội pháo tiêu chuẩn xung quanh nhằm tạo tiếng ồn mỗi khi khai hỏa, tránh để quân Anh và Pháp phát hiện trận địa.
Mỗi quả đạn pháo Paris nặng 106 kg, dài 960 mm, đường kính 216 mm và đạt sơ tốc đầu nòng hơn 5.900 km/h. Vỏ của nó làm bằng thép dày, bên trong chứa 7 kg thuốc nổ TNT, chiếm khoảng 6,6% khối lượng quả đạn.
"Mỗi phát bắn mất tới ba phút để tới mục tiêu, quả đạn có thể đạt độ cao tối đa trên 40 km. Xạ thủ khi bắn phải tính đến chuyển động xoay của Trái Đất nếu muốn bắn trúng mục tiêu", sử gia Mỹ Adam Hochschild cho biết.
Từ khi được đưa vào sử dụng, siêu pháo Paris của Đức nhiều lần khiến đối phương hoảng hốt. Ngày 21/3/1918, Đức bắn phá Paris bằng 21 quả đạn trong vòng 15 phút từ rừng Coucy, khiến Pháp tưởng rằng họ bị đối phương tập kích đường không bằng khinh khí cầu.
Những ngày sau đó, siêu pháo đã khai hỏa 320-367 phát đạn, khiến 250 người thiệt mạng và 620 người bị thương, đa số là dân thường. Vụ pháo kích tồi tệ nhất xảy ra ngày 29/3/1918, khi một quả đạn rơi trúng nhà thờ St Gervais et St Protais, khiến mái nhà thờ sụp xuống đám đông đang hành lễ và 91 người thiệt mạng.
Tuy nhiên, pháo Paris là một thất bại về mặt quân sự của Đức khi mỗi quả đạn chỉ chứa 7 kg thuốc nổ, không đủ gây ra thiệt hại lớn. Vỏ đạn được thiết kế rất dày để chống chịu lực bắn rất mạnh khi khai hỏa, nhưng lại khiến nó chỉ tạo thành những mảnh văng lớn khi phát nổ, hạn chế đáng kể sức sát thương.
Ngoài ra, sơ tốc đạn lớn khiến nòng pháo bị bào mòn rất nhanh. Mỗi viên đạn phải được đánh số và bắn theo thứ tự để phù hợp với đường kính nòng, liều phóng cũng phải được tính toán cẩn thận vì chỉ một sai lệch nhỏ cũng gây ảnh hưởng lớn tới tầm bắn. Nòng pháo được thay sau khoảng 65 phát bắn, sau đó chuyển về Đức để gia công và đưa trở lại chiến trường với lô đạn mới.
Quân đội Đức rút siêu pháo Paris về nước tháng 8/1918, khi phe Hiệp ước áp sát vị trí của quân Đức. Siêu pháo bị Đức phá hủy ở cuối cuộc chiến để không bị rơi vào tay đối phương.
Siêu pháo Paris đã khơi nguồn cảm hứng để Đức chế tạo những khẩu pháo cực lớn trong Thế Chiến II, trong đó có siêu pháo hạng nặng Gustav. Tuy nhiên, khẩu siêu pháo Gustav chỉ có tầm bắn 37 km và khai hỏa vỏn vẹn 48 phát đạn, không thể hiện được vai trò lớn trên chiến trường, tương tự pháo Paris.
Duy Sơn (Theo War History)