
Ông Nguyễn Anh Tuấn. Ảnh: P.A.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào VN đang đạt đỉnh. Theo ông, những tác động tăng trưởng là do đâu?- 10 tháng đầu năm, vốn FDI vào VN đạt 6,5 tỷ USD. Với điều kiện kinh tế chính trị thuận lợi hiện tại, việc thu hút vốn mới dễ dàng hơn, có thể đạt hơn 8 tỷ USD khi hết năm. Đây là mức cao nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực và sau khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1995.
Lý do là một số dự án được điều chỉnh quy mô rất nhanh, ví dụ như dự án của Intel tăng lên đến 400 triệu USD, các dự án của Nhật Bản... Nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, vị thế của VN trên thế giới đã thay đổi và VN trở thành thỏi nam châm hút đầu tư nước ngoài nên FDI tăng nhanh.
- Ông đánh giá như thế nào về vị thế mới của VN trong bức tranh kinh tế toàn cầu?
- Chưa bao giờ VN có cơ hội quảng bá hình ảnh rộng rãi trên thế giới như hiện nay. Sự kiện VN gia nhập WTO có tác động nối kết kinh tế trong nước với khu vực ASEAN và toàn cầu. Mối kết nối này có thể tháo gỡ những vướng mắc lâu nay của doanh nghiệp là quy mô thị trường quá bé, nhà kinh doanh khó thể xoay xở được nếu muốn mở rộng hoạt động ra ngoài nước.
Cái khó này lý giải vì sao hiện nay ngành ôtô trong nước rất có tiềm năng nhưng hiện nay chỉ tiêu thụ được một số lượng nhỏ. Các nhà kinh doanh điện tử nước ngoài lại tìm cách mở rộng quy mô đầu tư ở VN.
Dự báo của Cục Đầu tư nước ngoài là việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy dòng vốn FDI vào VN với những làn sóng đầu tư mới. Tuy nhiên cạnh tranh cũng gia tăng và gay gắt hơn. Không chỉ doanh nghiệp VN, mà cả khối FDI, nếu không quản lý tốt, không tự nâng cao năng lực cạnh tranh thì sẽ thu hẹp dần quy mô sản xuất, thậm chí có thể phá sản.
- Cục là cơ quan trực tiếp nắm giấy phép đầu tư của doanh nghiệp FDI. Vài năm nữa, ông nghĩ mình sẽ trao giấy phép cho những nhà đầu tư nào nhiều nhất?
- Nhiều luật mới của VN, đặc biệt là Luật đầu tư đã được ban hành, sửa đổi, cộng với các cam kết WTO song phương và đa phương, do đó vài năm tới, giới kinh doanh nước ngoài sẽ đầu tư vào VN với đa dạng hình thức. Bổ sung chức năng, đầu tư gián tiếp, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp... sẽ là những động thái nở rộ và hoàn toàn mới lạ với VN.
Trước đây, việc đầu tư mua lại cổ phần trong doanh nghiệp VN chưa phổ biến, thì nay ngược lại. Các cam kết WTO sẽ khơi thông những hình thức đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nước ngoài được quyền thành lập công ty cổ phần, hợp doanh như đồng nghiệp trong nước.
Việc huy động vốn của doanh nghiệp VN như vậy cũng có nhiều thuận lợi hơn. Lâu nay đối với doanh nghiệp trong nước, vốn pháp định chủ yếu là tự có, bao giờ cũng phải chiếm 30% tổng vốn đầu tư dự án. Phần còn lại là vốn vay. Còn bây giờ thì có thể huy động vốn ở nhiều cổ đông từ việc khơi thông nguồn vốn FDI.
Đối với các ngành dịch vụ còn yếu, khi mở cửa có thể thay đổi hình thức đầu tư. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo Luật đầu tư mới sẽ tăng, trong khi đó liên doanh sẽ giảm do có sự tham gia yếu ớt của doanh nghiệp trong nước và tâm lý muốn lập công ty 100% vốn FDI của nhà đầu tư nước ngoài.
- Cam kết gia nhập WTO có đề cập đến quyền nhập khẩu của doanh nghiệp. Quyền này doanh nghiệp được triển khai đến đâu?
- Trên thực tế quyền nhập khẩu lâu nay vẫn được doanh nghiệp FDI thực hiện, từ năm 1987. Cho đến nay, quyền nhập khẩu chủ yếu là được nhập máy móc thiết bị về để sản xuất, phục vụ cho nhu cầu của doanh nghiệp. Nếu nhập khẩu gắn với phân phối thì không được phép. Theo cam kết WTO, cụ thể doanh nghiệp được hưởng quyền nhập khẩu như thế nào, còn phải chờ Bộ Thương mại đưa vào quy định pháp luật thương mại.
Phan Anh