Căn cứ Điều 125 Bộ luật Lao động 2019, hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong trường hợp sau:
- Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc.
- Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động.
- Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật. Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 126 của Bộ luật Lao động 2019.
- Người lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.
Trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.
Như vậy, ngoài các trường hợp nêu trên thì người sử dụng lao động không được áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động.
Căn cứ khoản 1 Điều 6 và điểm c khoản 3 Điều 19 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, phạt tiền từ 20 đến 40 triệu đồng đối với người sử dụng lao động là cá nhân nếu xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng lao động đã giao kết hoặc pháp luật về lao động không quy định (trường hợp người sử dụng lao động là tổ chức sẽ bị phạt tiền từ 40 đến 80 triệu đồng).
Lưu ý: Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà sa thải trái pháp luật đối với người lao động gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật theo Điều 162 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Khung hình phạt thấp nhất đối với tội danh này là bị phạt tiền từ 10 đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 100 đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 đến 3 năm:
- Đối với 2 người trở lên.
- Đối với phụ nữ mà biết là có thai.
- Đối với người đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
- Làm người bị sa thải tự sát.
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm.
Theo tôi, trong thời gian này nói riêng và trong công việc nói chung, người lao động cần làm tốt công việc của mình, cố gắng không mắc các lỗi dẫn đến bị sa thải nêu ở trên để tránh trường hợp bị công ty sa thải. Nếu công ty sa thải người lao động một cách trái pháp luật sẽ gánh lấy chế tài như nêu ở trên, buộc phải nhận người lao động trở lại làm việc và bồi thường thiệt hại cho người lao động theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động 2019.
Luật sư Phạm Thanh Hữu
Đoàn luật sư TP HCM