Các ca nhiễm chỉ có triệu chứng nhẹ, nhưng ngày càng làm dấy lên nỗi sợ biến chủng virus trong đợt bùng phát thứ hai thực sự khác biệt và nguy hiểm. Họ hoài nghi rằng một biến thể truyền nhiễm nhanh hơn và có khả năng "né" hệ thống miễn dịch là nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng tồi tệ hiện tại của Ấn Độ.
"Làn sóng Covid-19 hiện tại rất khác", Sujay Shad, bác sĩ phẫu thuật tim tại bệnh viện Sir Ganga Ram, nói. "Nó ảnh hưởng đến những người trẻ tuổi. Nó ảnh hưởng tới các gia đình. Nó hoàn toàn mới. Những em bé hai tháng tuổi cũng bị nhiễm".
Đại dịch ở Ấn Độ ngày một tồi tệ, khi ngày 29/4, giới chức báo cáo hơn 3.600 ca tử vong, nâng tổng số người chết vì Covid-19 ở quốc gia này lên hơn 200.000 người. Số ca nhiễm mới hàng ngày cũng chạm mức kỷ lục mới, gần 380.000 người.
Khi nguồn cung oxy cạn kiệt và nhiều bệnh viện buộc phải từ chối tiếp nhận vì quá tải, các nhà khoa học đang cố xác định vai trò của biến chủng trong đợt bùng phát này. Do không xây dựng được hệ thống truy vết nCoV hiệu quả, các nhà khoa học chỉ có thể tìm hiểu dựa trên số lượng thông tin ít ỏi thu thập được.
Lo lắng của Ấn Độ giờ đổ dồn vào biến thể có tên B.1.617. Công chúng, báo chí và nhiều bác sĩ nhận định đây chính là tác nhân khiến đợt bùng phát thứ hai trở nên trầm trọng.
Giới chuyên gia nước ngoài cho rằng ngoài B.1.617, có nhiều yếu tố khác dẫn đến đợt bùng phát mạnh hiện tại, như chiến dịch triển khai vaccine chậm chạp với chưa đầy 2% dân số được tiêm chủng hay các biện pháp kiểm soát lỏng lẻo sau đợt bùng phát đầu tiên. Đồng thời, họ cho rằng Thủ tướng Narendra Modi cũng phải chịu một phần trách nhiệm khi có những quyết định sai lầm, gồm tổ chức vận động chính trị và gửi thông điệp cho người dân rằng điều tồi tệ nhất đã qua.
Những bằng chứng sơ bộ cho thấy các loại vaccine vẫn có hiệu quả với biến chủng Ấn Độ, nhưng mức độ không cao. Ấn Độ chủ yếu phụ thuộc vào vaccine AstraZeneca, loại vaccine được cho kém hiệu quả hơn vaccine Pfizer và Moderna trong các thử nghiệm lâm sàng.
"Hiện vaccine vẫn hiệu quả, nhưng có xu hướng thấp hơn", Céline Gounder, nhà dịch tễ học và bác sĩ về bệnh truyền nhiễm tại bệnh viện Bellevue ở New York, nói.
Tuy nhiên, tại Ấn Độ, một số bác sĩ chỉ ra bằng chứng cho thấy người đã tiêm chủng vẫn nhiễm bệnh. Các bác sĩ cho biết họ thấy nhiều đứa trẻ có triệu chứng nghiêm trọng, như tiêu chảy, tụt huyết áp hay nhiễm toan (nồng độ axit trong máu và các mô của cơ thể tăng).
"Điều này rất khác với những gì chúng tôi từng thấy năm ngoái", Soonu Udani, người đứng đầu khoa chăm sóc đặc biệt tại bệnh viện nhi SRCC ở Mumbai, nói.
Biến thể ở Ấn Độ đôi khi được gọi là "đột biến kép", vì một trong ba phiên bản của nó chứa hai đột biến gene được tìm thấy trong các biến thể khó kiểm soát của nCov. Một đột biến xuất hiện trong biến thể hoàn hành ở California đầu năm nay. Loại còn lại được tìm thấy trong biến chủng lần đầu phát hiện ở Nam Phi và được cho khiến vaccine kém hiệu quả hơn.
"Có những biến thể dễ lây lan hơn các loại chúng ta từng đối phó cách đây một năm", Jeffrey Barrett, giám đốc sáng kiến về gene Covid-19 tại Viện Wellcome Sanger ở Anh, nói. "Mọi thứ có thể thay đổi rất nhanh, do đó nếu một quốc gia không phản ứng đủ nhanh, mọi thứ có thể nhanh chóng chuyển từ xấu tới mức rất xấu".
Các nhà khoa học nói rằng các loại biến chủng khác nhau đang hoành hành ở từng khu vực riêng tại Ấn Độ. B.1.617 được phát hiện trong lượng lớn mẫu sinh phẩm của bang Maharashtra. Trong khi đó, B.1.1.7 tăng nhanh ở New Delhi, theo Sujeet Singh, giám đốc Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Quốc gia Ấn Độ, khi chiếm tới 50% số mẫu sinh phẩm vào cuối tháng 3, tăng từ mức 28% chỉ hai tuần trước đó. Ông thêm rằng, biến chủng B.1.617 cũng lây lan ở thủ đô Ấn Độ.
Tuy nhiên, Ấn Độ có quá ít dữ liệu để phân tích về mức độ phân bổ của các biến chủng virus trên khắp cả nước. Dù có số lượng ca nhiễm mới lớn, Ấn Độ thực hiện rất ít phân tích trình tự gene.
Hồi tháng 12, chính phủ đã lựa chọn một nhóm gồm 10 phòng thí nghiệm và đặt mục tiêu tham vọng phân tích trình tự gene của 5% số mẫu phẩm bệnh trên toàn quốc mỗi tháng. Nhưng cho tới nay, chưa đến 1% số mẫu được thực hiện.
"Họ chỉ đơn giản không có đủ nguồn lực để các bác sĩ và nhà khoa học có thể thực hiện các nghiên cứu phức tạp", Gounder nói.
Quan chức Ấn Độ đang cố gắng xác định bao nhiêu người bị nhiễm nCoV dù đã tiêm đủ liều vaccine, nhằm tìm hiểu mức độ nguy hiểm của biến chủng. Họ đang tập trung vào nhóm nhân viên y tế tuyến đầu, những người nhiều khả năng đã tiêm đủ hai liều vaccine AstraZeneca.
Dữ liệu từ Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Ấn Độ tính đến ngày 21/4 cho thấy tỷ lệ nhiễm trùng sau khi tiêm vaccine rất thấp, dù không bằng Mỹ. Dữ liệu chỉ ra chỉ 0,02 - 0,04% người tiêm vaccine ở Ấn Độ nhiễm nCoV, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ là 0,008%.
Tại bệnh viện Sir Ganga Ram, 37 bác sĩ nhiễm nCoV, đã được tiêm mũi AstraZeneca đầu tiên vào khoảng cuối tháng 1 tới đầu tháng 2, và được tiêm mũi thứ hai sau đó 4-6 tuần. Bệnh viện này có khoảng 500 bác sĩ. Tuy nhiên, bác sĩ Shad không muốn vội vàng kết luận biến chủng ở Ấn Độ có thể phá vỡ hệ thống miễn dịch của vaccine, khi cho rằng họ chưa có đủ dữ liệu để trả lời.
Việc thiếu dữ liệu đã ảnh hưởng rất nhiều tới nỗ lực tìm hiểu về biến chủng của giới khoa học Ấn Độ, cũng như vai trò của nó đối với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hiện tại. Các biến chủng biến đổi nhanh càng khiến bức tranh này thêm rối loạn, khi họ không rõ chúng lây lan nhanh như thế nào hoặc phản ứng ra sao với vaccine.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe Ấn Độ đã không cảnh giác trước ảnh hưởng của biến thể, ngay cả khi chúng lây lan mạnh trên toàn cầu, theo Thekkekara Jacob John, một nhà virus học cấp cao ở bang Tamil Nadu.
"Chúng tôi hoàn toàn không chú trọng tới các biến chủng. Hay có thể nói, chúng tôi đã đánh mất cơ hội", ông nói.
Thanh Tâm (Theo NYTimes)