Đây là một trong các ca điển hình cho thấy nguy cơ đột quỵ đối với người mắc bệnh loạn nhịp tim Nguy cơ cao gấp 5 bình thường, tiên lượng xấu hơn nếu xảy ra đột quỵ.
Bác sĩ Nguyễn Bá Thắng, Trưởng Đơn vị Đột quỵ, Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM, cho biết đột quỵ là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Trong đó, khoảng 20% trường hợp đột quỵ là do bệnh rung nhĩ - tim đập loạn nhịp.
Ca bệnh nói trên ngụ tại Long An, phát hiện bệnh rung nhĩ cách đây 10 năm, duy trì uống thuốc kháng đông dự phòng đột quỵ. Tuần trước, bà đi nhổ răng nên tạm ngưng uống thuốc dự phòng. Xong thủ thuật nhổ răng, bà tiếp tục uống thuốc dự phòng đột quỵ, tuy nhiên chỉ vài giờ sau bà đột ngột bị liệt nửa người trái.
Bác sĩ chẩn đoán bà bị tắc động mạch máu não giữa bên phải do thiếu máu não. Sau can thiệp nội mạch, cục máu đông được lấy ra, động mạch não tái thông. Hiện bệnh nhân hồi phục tốt, riêng tay trái còn yếu.
Bác sĩ Thắng nhận định, nếu không cấp cứu kịp thời, bà sẽ bị nhồi máu não diện rộng, hư hại gần một nửa não bộ, có thể phù não nguy hiểm tính mạng. Trong trường hợp này, nếu bà sống sót cũng sẽ liệt nửa người và rối loạn lời nói.
Theo giáo sư, bác sĩ Trương Quang Bình, Phó giám đốc Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM, rung nhĩ gây ứ trệ máu trong buồng tim, làm hình thành những cục máu đông trong tâm nhĩ. Các cục máu đông này có thể trôi theo dòng máu và gây tắc mạch. Trường hợp tắc mạch máu não sẽ dẫn đến đột quỵ.
Tỷ lệ mắc rung nhĩ tăng rõ theo tuổi. Dưới 60 tuổi, tỷ lệ cứ 25 người sẽ có một người bị rung nhĩ. Trên 80 tuổi thì cứ 10 người thì có một người bị rung nhĩ.
"Đột quỵ do rung nhĩ thường nặng nề hơn, tiên lượng xấu hơn đột quỵ bởi nguyên nhân khác", bác sĩ Bình nhấn mạnh.
Bệnh rung nhĩ có thể điều trị dứt điểm, bằng sốc điện chuyển nhịp, hoặc đốt điện trong buồng tim, tiêu hủy ổ rung nhĩ, đưa nhịp tim trở lại bình thường. Phần lớn người bệnh phải dùng thuốc kháng đông máu. Thuốc sẽ ngăn chặn việc hình thành cục máu đông trong tiểu nhĩ, giảm đến 80% nguy cơ đột quỵ. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân rung nhĩ không tuân thủ việc sử dụng thuốc và các biện pháp dự phòng đột quỵ. Nhiều người sau đó đột quỵ phải nhập viện cấp cứu trong tình trạng rất nguy hiểm, đe dọa tính mạng.
Người có tiền sử bệnh lý về tim như nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim cục bộ lâu ngày, suy tim, cơ tim hoặc viêm màng ngoài tim... đều dễ dẫn đến tình trạng rung nhĩ, bác sĩ Bình cho biết. Ngoài ra, các bệnh lý ngoài tim như tăng huyết áp, phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh về tuyến giáp (đặc biệt là cường giáp) cũng là nguyên nhân gây rung nhĩ. Rung nhĩ còn có thể xảy ra ở người sử dụng nhiều rượu bia, béo phì, nhiễm trùng nặng...
Dấu hiệu thường gặp của rung nhĩ là nhịp tim đập rối loạn, gây hồi hộp, đánh trống ngực, đau tức ngực. Cá biệt, có người bệnh không biểu hiện triệu chứng.
Các bác sĩ khuyến cáo đột quỵ không có dấu hiệu nhận biết trước. Người có yếu tố nguy cơ, nhất là bệnh lý tim mạch phải chủ động trang bị kiến thức, tự bảo vệ bản thân. Người đã từng bị đột quỵ, nguy cơ đột quỵ tái phát rất cao, càng cần phải dự phòng sát sao. Bên cạnh việc tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ, khám sức khỏe định kỳ, người bệnh nên có chế độ ăn, tập luyện thể thao, lối sống lành mạnh.
Tại Việt Nam, mỗi năm ghi nhận hơn 200.000 người bị đột quỵ, trong đó 10 đến 20% trường hợp tử vong, khoảng 30% người sống sót có khả năng bình phục hoàn toàn.
Thư Anh