Tôi đến Paris lần đầu từ một thành phố cổ nhỏ bé của Đức. Có lẽ vì vậy mà ấn tượng ban sơ về sự sự đông đúc và sáng chói của Paris làm tôi rất ấn tượng. Trong những ngày cuối đông vẫn còn ngập tràn bầu không khí lạnh lẽo đó, ánh sáng từ những toà nhà cao bóng loáng kính, những bảng điện chớp nháy làm cho màu xám xịt bớt tràn ngập khắp bầu trời và những công viên trơ trọi nhành cây hơn. Tôi đã nghĩ đến câu nói của văn hào người Mỹ Hemingway - người đã để lại rất nhiều dấu ấn cá nhân tại thành phố này: “Nếu bạn may mắn được sống ở Paris trong tuổi thanh xuân, thì cho dù có đi đâu trong suốt đường đời còn lại, Paris vẫn ở trong bạn, bởi Paris là một cuộc hội hè miên man”. Và tự hỏi: Liệu những người trải qua thanh xuân ở Paris, có thực sự nghĩ vậy không? Hay chỉ là ảo giác vẽ ra cho những người đi lướt qua Paris trong thanh xuân, như tôi chẳng hạn?
Paris khiến tôi nghĩ nhiều về câu hỏi tưởng đã rơi vào dĩ vãng của những năm đầu đời học tiếng Anh: “Bạn muốn sống ở thành phố lớn hay thành phố nhỏ?”. Nếu ở thành phố nhỏ đang sống, tôi phải đợi 20-30 phút cho một chuyến xe về nhà, thì metro ở Paris chạy đều đều 2-3 phút đã thấy một chuyến, từ sáng sớm tới tối mịt. Có khi chuyến này đầy cũng chả ngại ngần đợi chuyến sau. Nhưng dù thế người Paris, ừ những Parisien kiêu hãnh trong truyền thuyết ấy, vẫn đi nhanh như thể đây là chuyến tàu cuối về nhà, như thể nếu không lên được chuyến tàu này là tận thế.
Metro ở Paris là hàng hàng lớp lớp những bước chân sải dài và nhanh theo những nhịp phách loạn xạ, làm nên một thứ âm thanh rộn rã và thúc bách con người tiến về phía trước một cách kỳ lạ. Bạn không thể đi chậm. Trên thang cuốn bạn vẫn phải bước, gót giày cao gót, giày tây lẫn giày thể thao gõ lộp cộp. Những người lười biếng muốn dựa dẫm vào chuyển động máy móc một phút chốc, thì cũng phải theo quy tắc là đứng về bên phải thang, nhường chỗ cho đoàn quân đang diễu hành ngay bên trái. Bánh vali luôn phải lao hết tốc lực. Khi cửa metro mở, bạn phải nhanh chóng bước vào. Không có chỗ cho sự chậm chạp, dùng dằng.
Metro Paris có một thứ mùi đặc trưng và khó diễn tả. Bạn tôi bảo đó là mùi của những người gốc Phi và Ả Rập. Nhưng sự có mặt của thứ mùi đó âu cũng hiển nhiên thôi. Bằng đấy con người chen chúc trong một không gian hạn hẹp, cộng thêm nhịp điệu di chuyển nhanh như thế, thì đổ lỗi cho những người ăn thức ăn nhiều tỏi và gia vị chẳng qua chỉ là bước cuối cùng hoàn thiện bản giải trình.
Bạn tôi cũng kể ở Paris người nghèo toàn chui dưới đất, người giàu mới được nhìn thấy mặt trời. Hơi thậm xưng nhưng tới lúc sắp rời Paris, tôi phải công nhận là nó không quá xa sự thật. Hệ thống tàu điện ngầm của Paris hàng ngày tiếp nhận đạo quân lộp cộp kia, và cũng đồng thời giam giữ họ trong mê cung sâu thẳm, tối tăm của mình. Trói buộc lính tráng của mình trong cái vòng mê mải lên – xuống – chuyển – lên – xuống – chuyển.
Ngày kế cuối ở Paris, tôi đi một chuyến tàu ra ngoại ô khá dài để đến Cung điện Versailles. Đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe nhạc rong trên metro. Trước đó tôi đã nghe khắp nẻo Paris, móc ra bao nhiêu xu lẻ ở Montmartre, St. Michel, Palais Garnier, nhưng đó là lần duy nhất tôi nghe nhạc “đường phố” trên metro. Tiếng accordeon, tiếng harmonica hoà quyện và vang vẳng chắc phải khắp mấy toa tàu. Người đàn ông gypsy trung niên bước qua từng toa tàu, chìa chiếc hộp gỗ đến từng ghế ngồi, nhận lấy cả những đồng xu lẻ lẫn sự thờ ơ thường trực của những mái đầu cắm cúi vào điện thoại, sách báo. Có lẽ chỉ những du khách ngơ ngác như tôi mới thực sự quan tâm đến đội quân hát rong có mặt khắp nơi này. Về lại thành phố nhỏ của mình, tôi cũng thấy nhạc ngoài quảng trường nhiều lần nhưng hầu như chưa bao giờ đứng lại nghe. Ở Paris tôi là khách du lịch, xung quanh tôi cũng toàn là khách du lịch cần nghệ thuật để tô điểm cho chuyến du hành của họ. Nên nghệ thuật, dù là thứ nghệ thuật đường phố không chính danh, cũng được trân trọng mãnh liệt.
Ở Paris tôi đã ngồi gần 2 tiếng trên những bậc thềm trước nhà thờ lớn Sacre Coeur để nghe hát, cùng với một đám đông du khách. Chàng ca sĩ chắc chắn không phải người Pháp vì hát La vie en rose bằng một phát âm không hề chuẩn. Cứ xong một bài, anh chàng lại nhắc khách bỏ tiền vào hộp đàn một tràng, và giới thiệu bài tiếp theo một cách bài bản như thể đây là mini liveshow trịnh trọng nhất đời. Vài anh chàng da đen cao lớn xách túi giấy Heineken len lỏi vào từng bậc cầu thang để bán. “Đây là chai bia đắt nhất mà tôi từng mua” – cô bạn Marina của tôi ca thán. “Nhưng chắc là tiền công cho anh chàng xách bia tới tận nơi. Thật là biết kinh doanh”, cũng Marina, chắc để tự an ủi.
Tôi cũng tiếc đứt ruột vì chai bia, nhưng tự nhủ: Bia lạnh và nghe La vie en rose ở Montmartre, nhìn xuống toàn cảnh Paris trong một ngày trời xanh nắng ấm, thôi thì thanh xuân ở Paris. Người ta may mắn được trải qua thanh xuân ở đó, tôi chỉ được 1% may mắn thôi, không nên vì tiếc mấy euro mà phí phạm đi khoảnh khắc này nhỉ?!