Tháp Maslow có năm tầng, sắp xếp các nhu cầu và động lực sống của con người theo thứ tự quan trọng. Tầng đáy thứ nhất là những đòi hỏi cơ bản như ăn, ngủ, bài tiết và sinh lý.
Maslow cho rằng chỉ khi được thỏa mãn các nhu cầu ở tầng thứ nhất, con người mới quan tâm đến tầng thứ hai là an toàn về thể chất và tài chính. Thỏa mãn tầng thứ hai, con người mới nghĩ đến tầng thứ ba là tình cảm gia đình, bạn bè, lứa đôi và cộng đồng.
Cứ như thế, con người có cơ hội phát triển cao nhất khi được mãn nguyện nhu cầu ở tầng thứ tư - được tôn trọng, tin tưởng và tầng chóp cao nhất: được thể hiện khả năng của bản thân ở mức tối đa.
Tuy nhiên, tháp nhu cầu sau nhiều năm ra đời cũng đã nhận về khá nhiều chỉ trích. Đứng từ góc độ tiến hoá sinh học và văn hoá, sự sắp xếp các nhu cầu theo thứ tự thấp đến cao như vậy không hẳn chính xác. Nhiều nhà khoa học chỉ ra rằng con người cần nhất không phải là những nhu cầu xoay quanh cái mồm và bộ máy sinh sản, tiêu hoá.
Tầng quan trọng nhất với con người là tầng thứ ba: "sự yêu thương và khao khát được thuộc về" cộng đồng nào đó. Đó là tình cảm và sự gắn kết với những người cùng máu mủ, với bạn bè, đồng nghiệp, hay thậm chí với những vật nuôi thân thiết mà ta coi như thành viên gia đình.
Nếu không có mối dây yêu thương và kết nối ràng buộc ấy thì khó có đủ điều kiện tiên quyết để tạo nên sự hợp tác giữa người với người, đặng làm ra thức ăn và kiến tạo sự an toàn cho mỗi cá nhân, cộng đồng. Vì mối dây này, ta có thể bỏ qua nhu cầu của tầng thứ nhất và thứ hai. Ta thức trắng đêm trông con ngủ. Ta nhịn ăn để người thân đỡ đói lòng. Ta có thể đi tu và từ bỏ nhục dục nhưng không bao giờ từ bỏ lòng hỉ xả và tình yêu với chúng sinh. Ta thậm chí sẵn sàng hy sinh sự nghiệp, tiền bạc, sự an toàn của bản thân, thậm chí đánh đổi mạng sống cho những người ta thương quý.
Tầng thứ ba, "sự yêu thương và được thuộc về" không những là mục tiêu của hai tầng đáy mà cũng chính là mục tiêu của hai tầng chóp. Sự tôn trọng và tin tưởng từ những người xung quanh là công cụ gián tiếp để chính bản thân ta được yêu thương và thuộc về. Tôn trọng và tin tưởng sẽ trở nên vô nghĩa khi nó không đến từ chính những người có ý nghĩa với ta.
Đó là lý do tại sao có những nhân tài được xã hội sùng bái nhưng cô đơn và bất hạnh từ trong tâm, thậm chí kết thúc cuộc đời bằng tự sát. Họ có thể lớn lên trong sự nuôi dưỡng hà khắc của cha mẹ, thiếu vắng tình yêu chân thành từ người bạn đời có khả năng thấu hiểu. Xã hội có thể ngưỡng mộ họ nhưng cái họ khao khát là đồng cảm và chở che chứ không chỉ là sự tò mò hay xưng tụng với ẩn ý lợi dụng.
Tương tự, tầng chóp của tháp với nhu cầu thể hiện hết khả năng của chính mình cũng là một cách gián tiếp để khẳng định vị trí được yêu thương và thuộc về. Đến cả những bậc tu hành dành phần lớn cuộc đời sống ẩn dật để đạt được đỉnh cao trong tu tập cũng thường có ý thức truyền lại kinh nghiệm của mình cho học trò và chúng sinh trước khi chết. Sự tỏa sáng của bản thân là vô nghĩa khi ta không kết nối với một cá thể khác cùng giống loài. Hào quang là vô nghĩa khi nó không chạm được vào đáy mắt của một sinh linh khác.
Trong bộ phim nổi tiếng dựa trên câu chuyện có thật "Into the wild", chàng trai trẻ Christopher tự nguyện cắt đứt mọi mối quan hệ xã hội. Anh rời bỏ cả tình yêu vừa chớm nở để khám phá tận cùng sự thật của tồn tại, của hạnh phúc và chân lý khi một mình sống trong thiên nhiên hoang dã. Anh chết vì ngộ độc quả cây. Trong cuốn sách anh mang theo, người ta tìm thấy một đoạn viết như sau: "Chỉ khi ta hòa mình với phận đời của những kẻ xung quanh thì đó mới là cuộc sống". Bên lề cuốn sách, cạnh đoạn văn này là dòng chữ cuối cùng của Christipher trước khi trút hơi thở cuối: "Hạnh phúc chỉ có thật khi được sẻ chia".
Vậy tại sao yêu thương và thuộc về lại là nhu cầu tối quan trọng với loài người?
Ta hãy cùng nhìn những con thú cưng quanh mình. Chúng sống với người cả cuộc đời nhưng vẫn hoàn toàn là cầm thú. Thậm chí trong nhiều trường hợp, sức mạnh của gene lấn át sự yêu thương và thú cưng giết cả chủ.
Giờ ta hãy so sánh với câu chuyện của Tarzan - cậu bé rừng xanh. Khi được mẹ khỉ đưa về nuôi, Tarzan không còn là "người" dù bộ gene của cậu vẫn là gene người. Cậu học bám cây và ăn thức ăn sống như gia đình mới của mình. Lịch sử y học ghi nhận nhiều trường hợp trẻ nhỏ sống cùng muông thú cũng đi bằng bốn chân và sinh hoạt như thú.
Sự khác biệt giữa thú cưng và Tarzan minh họa cho một trong những lý thuyết quan trọng nhất của sinh học tiến hoá. Đó là loài vật tiến hoá bằng biến đổi gene, còn loài người tiến hóa bằng biến đổi văn hóa.
Bộ óc con người dẻo như một miếng xốp giúp ta dễ dàng thẩm thấu bất kỳ nền văn hoá của bất kỳ cộng đồng nào nhằm mục đích tồn tại. Cộng đồng đó có thể là một ngôi làng ở cực Bắc, một thị trấn ven sông hay bầy khỉ trong rừng già châu Phi. Cũng như Tarzan, bộ óc được lập trình để ta tự động yêu thương, gắn bó và hy sinh vì cộng đồng đó. Bởi nếu không, cũng như Tarzan, chính ta sẽ bị huỷ diệt.
Quay trở lại cơn đại dịch, hơn bao giờ hết, chúng ta đang chứng kiến sự nhường cơm sẻ áo và đùm bọc giữa những "đồng bào". Trong gian khó, sự quan tâm gắn kết càng bộc lộ rõ hơn, từ kẻ thân, sơ lẫn người xa lạ.
Những ngày giãn cách, người bạn khác của tôi viết nhật ký biết ơn. Ngày viết đầu tiên là khi bạn được tặng bó rau xanh. Nhật ký biết ơn ghi lại những điều tốt đẹp đã đến trong ngày. Chỉ vài dòng thôi, nhưng có tác dụng khiến bộ não được cung cấp nguồn năng lượng tích cực, kéo ta ra khỏi đại dương mê hoàng của sự sợ hãi và thị phi ngoài kia.
Sức mạnh của "yêu thương và được thuộc về" là sức mạnh của tiến hoá, của dòng động lực đã khiến xã hội con người vươn lên thống trị thế giới này. Nó khiến chúng ta không có vây cá nhưng chinh phục đại dương, không có cánh nhưng bay lên tận mặt trăng, không biến đổi gene nhưng sống được ở mọi ngóc ngách của địa cầu.
Cũng như miếng ăn không chỉ là miếng ăn, con mèo ốm không chỉ là mèo ốm. Nó là thái độ, sự quan tâm, lòng trắc ẩn và đồng cảm, vừa đủ để một người có thể tôn trọng luật pháp nhưng vẫn tìm ra cách ứng xử với nhau sao cho nhân văn nhất khi thấy đồng loại mình gặp nạn.
Cái ta cần nhất trong đại dịch này, ấy là lòng yêu thương.
Nguyễn Phương Mai