Ba Lan vượt qua khó khăn kinh tế
Ba Lan phải chịu những năm tháng khó khăn, trong đó 2001 là năm tồi tệ nhất, với những kết quả kinh tế đáng lo ngại: tăng trưởng chững lại (dưới 2%), thất nghiệp tăng liên tục (gần 17%), tài chính nhà nước rệu rã. Nhưng tai hại nhất là thái độ của cử tri trong bầu cử Quốc hội tháng 9/2001, đã quét sạch khỏi chính trường các đảng nắm quyền từ năm 1997, đến mức các đảng này không còn một ghế nào trong Quốc hội. Đồng thời, Đảng Xã hội Dân chủ, với 42% số phiếu, thắng không giòn giã như người ta tưởng, mà phải liên minh với một đảng của nông dân có quan điểm kinh tế không giống họ. Còn thắng lợi không ngờ của các đảng đối lập khiến tình hình càng thêm bất ổn.
Nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn kinh tế của Ba Lan là tăng trưởng giảm sút trên toàn châu Âu. Lạm phát giảm (dưới 5%), tuy là một yếu tố tích cực, song lại làm giảm thu Nhà nước vào lúc bầu cử đang đến gần. Số xí nghiệp phá sản không ngừng tăng lên, nhịp độ đầu tư nước ngoài giảm sút, kết quả tư nhân hóa không được như dự kiến.
Tuy vậy, nền kinh tế Ba Lan vẫn chống chọi có kết quả trước biến động của tình hình. Bằng chứng hùng hồn nhất là sức sống đáng ngạc nhiên của đồng zloty, tuy vấp phải tỷ giá cao nhưng vẫn có giá trị trong lúc thị trường chao đảo. Một yếu tố khác là tuy tỷ giá hối đoái bất lợi, song các nhà xuất khẩu Ba Lan đã thu được những kết quả đáng kể và thâm hụt thanh toán bình thường rất cao đã giảm một phần. Nợ nước ngoài (gần 40% GDP) không đáng lo ngại, cho dù nợ ngắn hạn tư nhân tăng lên nhanh chóng. Dự trữ của Ngân hàng trung ương đạt mức đáng kể.
Cộng hòa Czech đáng khen
Chính phủ của Thủ tướng Milos Zeman đã hoàn thành phần lớn chương trình đặt ra. Nền kinh tế Czech năm 2001 lại tăng trưởng với GDP tăng 3,7%, và việc chuẩn bị gia nhập EU lấy lại được nhịp độ cần thiết sau một thời gian dài chậm trễ dưới thời ông Vaclav Klaus.
Ủy ban châu Âu khen ngợi Prague: Bản báo cáo hằng năm đưa ra những nhận xét tích cực về sự phát triển, tuy vẫn chưa đủ, của Czech trong tiến trình hội nhập với cộng đồng. Theo Brussels, Cộng hòa Czech đã có một nền kinh tế thị trường hiệu quả và khả năng đương đầu với áp lực cạnh tranh trong Liên minh châu Âu, nhất là nếu đạt tiến bộ trong việc củng cố ngân sách và hoàn thành cải tổ cơ cấu.
Về chính trị, Ủy ban châu Âu thừa nhận Czech cũng có tiến bộ, mặc dù chưa thực hiện quy chế hành chính công và vẫn còn phân biệt đối xử với người thiểu số Digan. Ngoài ra, tuy đã có nhiều biện pháp đấu tranh chống tham nhũng và tội phạm kinh tế, song nạn gian lận, rửa tiền và giả phá sản vẫn là những vấn đề nghiêm trọng và đáng lo ngại.
Sau 3 năm liền suy thoái, nền kinh tế bắt đầu phục hồi từ quý 3/1999, rồi bị ảnh hưởng do kinh tế toàn châu Âu chững lại từ sau vụ khủng bố 11/9. Năm nay, mức tăng trưởng dự kiến giới hạn ở mức 3%. GDP tăng một phần là nhờ sức tiêu thụ của các gia đình, lương tăng, nhưng chủ yếu là do đầu tư của các xí nghiệp tăng (+9%) trong lĩnh vực xây dựng và trang thiết bị. Tốc độ phát triển được đầu tư nước ngoài hỗ trợ: gần 11,38 tỷ euro trong hai năm vừa qua, trong đó riêng năm 2001 có 6,26 tỷ. Đó là kết quả của chính sách khuyến khích đầu tư nói chung, đặc biệt của ngành ngân hàng. Giá trị đồng curon tăng 12% so với euro trong vòng một năm. Xuất khẩu tăng 16% và nhập khẩu 15%. Nhưng thâm hụt thương mại lại nghiêm trọng hơn (chiếm 5,1% GDP), cũng như thâm hụt ngân sách (8,1% GDP) và nợ nhà nước (60% GDP).
Slovakia mong manh
Quá trình làm trong sạch và khởi động lại nền kinh tế vẫn chưa có kết quả. Nạn thất nghiệp vẫn chiếm tới 18% số dân trong độ tuổi lao động và giá sinh hoạt vẫn tiếp tục tăng nhanh hơn lương. Các đảng cánh tả tham gia chính phủ có nguy cơ thất bại trong bầu cử Quốc hội vào tháng 9/2002. Đảng Phong trào vì một nước Slovakia dân chủ (HZDS) và đảng Smer hiện dẫn đầu trong các cuộc thăm dò dư luận, và có khả năng sẽ đứng ra thành lập chính phủ sắp tới.
Với tổng số đầu tư 4,55 tỷ euro trong 12 năm, trong đó 0,5 tỷ trong nửa đầu năm 2001, Slovakia đứng cuối bảng trong số các nước Trung Âu. GDP tăng 2,8%-3% trong năm 2001. Tỷ lệ tăng trưởng này chủ yếu nhờ vào hàng nhập khẩu, nên thâm hụt thương mại càng trầm trọng hơn (chiếm 9,4% GDP), tuy xuất khẩu tăng 16%. Cán cân thông thường cũng thâm hụt nặng nề. Chính phủ tuy bị chia rẽ sâu sắc, nhưng vẫn kiềm chế được lạm phát. Tuy nhiên, họ đạt được ít kết quả hơn trong việc giảm thâm hụt ngân sách với tỷ lệ tăng gấp hai lần so với dự kiến (1,3 tỷ euro chiếm 7% GDP).
Hungary vững chắc
Cũng như các nước khác, Hungary chịu tác động của tình hình thay đổi trên thế giới, đặc biệt tại Tây Âu. Tuy nhiên, nền kinh tế nước này vẫn vững vàng, được giới đầu tư tin tưởng và đứng hàng đầu trong số các ứng cử viên gia nhập Liên minh châu Âu.
Từ giữa năm 2001, các mục tiêu tăng trưởng đã phải rút từ 5,2% xuống còn 4% so với năm trước, song vẫn còn khá hơn các nước Trung Âu khác. Hoạt động kinh tế suy giảm ở Trung Âu - nơi Hungary bán nhiều hàng nông sản và công nghiệp - khiến xuất khẩu của nước này chỉ tăng được 10% và sẽ tiếp tục giảm trong năm nay. Tuy nhiên, thâm hụt thương mại ổn định và thặng dư cán cân thanh toán được cải thiện, với mức giảm nhanh hơn dự kiến và dừng ở mức dưới 7,5%. Thêm vào đó là tỷ lệ thất nghiệp (5,8%) thấp hơn rất nhiều đối với một nước đang trong quá trình chuyển đổi. Thâm hụt ngân sách tương đối ổn định (3,3% GDP), nhưng nợ nhà nước lại tăng lên.
Chính phủ của Thủ tướng Viktor Orban quyết tâm tạo ra một tầng lớp trung lưu mới nhằm cải thiện đáng kể điều kiện sống của những người nghèo, với một chương trình phát triển đầy tham vọng trên cơ sở trợ giúp các xí nghiệp vừa và nhỏ, phát triển du lịch và công nghệ cao. Chương trình này ban đầu được hoạch định cho hai năm với chi phí một tỷ euro/năm, sau được gia hạn thêm một năm nữa. Chính phủ hy vọng sẽ trụ lại thêm một nhiệm kỳ nữa sau cuộc bầu cử quốc hội vào mùa xuân năm nay. Nhưng cuộc chạy đua với phái xã hội sẽ rất quyết liệt.
Romania cải tổ muộn màng
Romania đạt được tỷ lệ tăng trưởng đáng ngạc nhiên 4,5% trong năm 2001 sau 4 năm suy thoái, và tỏ rõ quyết tâm tiến hành cải tổ sâu rộng. Sự xuất hiện trở lại của Tổng thống Ion Iliescu (sau nhiệm kỳ 1990-1996) không gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Thủ tướng Adrian Nastase có vị thế ổn định và nhận được sự ủng hộ vững chắc của Quốc hội.
Romania đã phát triển xuất khẩu và phát triển sản xuất công nghiệp. Đầu tư trong năm 2001 tăng 5,5%, xuất khẩu tăng 24% so với năm 2000. Dự trữ của Ngân hàng Trung ương đạt mức kỷ lục (5 tỷ euro). Nạn thất nghiệp ổn định ở mức 8,6%. Quá trình tư nhân hóa được phục hồi. Romania cam kết với các đối tác phương Tây sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tư nhân hóa hệ thống ngân hàng. Hiện 3 ngân hàng nhà nước vẫn nắm tới 46% cố phần, song Ngân hàng Trung ương đã quyết định giảm hỗ trợ đối với số này để khuyến khích hoạt động cho vay với độ rủi ro cao. Hiệp định mới vay 435,8 triệu euro, vừa ký hồi cuối năm với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giúp tăng độ tin cậy của Romania tại các thị trường tài chính. Nước này đang thương lượng với Ngân hàng Thế giới (WB) về hiệp định tư nhân hóa 20 xí nghiệp nhà nước và tự do hóa thị trường năng lượng.
Khó khăn đối với nền kinh tế Romania là lạm phát cao. Năm 2001, tỷ lệ lạm phát được kéo xuống còn 30% so với 45% trong năm 2000. Thâm hụt ngân sách là 3,5%.
Mục tiêu ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Romania vẫn là gia nhập Liên minh châu Âu và NATO. Tuy đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, song Romania lại quá chậm trễ trong cải tổ. Nhanh nhất thì phải vào đợt 2, năm 2007, Romania mới có thể gia nhập EU. Tuy nhiên, nước này có thể trở thành thành viên chính thức của NATO ngay năm nay. Romania coi điều này như một sự thừa nhận mình thuộc không gian châu Âu hơn là bước đi quân sự.
Họ cũng hy vọng từ đó, có thể thu hút thêm đầu tư nước ngoài để thúc đẩy kinh tế. Trong 12 năm qua, Romania chỉ nhận được 7,5 tỷ euro đầu tư, một khoản tiền không đủ để phát triển thị trường 22,4 triệu người tiêu dùng. Tuy nhiên, tiềm năng của Romania lớn và nếu kinh tế phát triển, tiêu dùng hàng của EU sẽ thúc đẩy họ mở rộng thị trường. Romania trao đổi thương mại chủ yếu với châu Âu (kim ngạch nhập khẩu chiếm 64%, xuất khẩu 57% trong EU).
Bulgaria với nhiều "sự lạ" trên chính trường
Một cựu vương được bầu làm thủ tướng, rồi một đảng viên cộng sản được bầu làm tổng thống. Đằng sau những điều tưởng như là "sự lạ" đó là một logic: Dân chúng đã quá chán nản trước khủng hoảng kinh tế, trước tình hình không triển vọng và thất vọng sau thời kỳ 10 năm chuyển tiếp. Bằng việc bị đánh bại trong cuộc bầu cử tháng 6/2001, tổng thống mãn nhiệm Petar Stoianov đã trả giá cho sự tan vỡ của liên minh từng ủng hộ ông, và cho nền kinh tế xuống cấp. Tỷ lệ thất nghiệp chiếm tới 16,7% dân số trong độ tuổi lao động. Lạm phát vẫn cao, ở mức 7,3%. Món nợ nước ngoài còn 9,3 tỷ euro mặc dù chính phủ đã cố gắng lành mạnh hóa nền tài chính công. Giữa tháng 10/2001, chính phủ ra một quyết định không hợp lòng dân: bãi bỏ thuế trực tiếp và đưa vào những khoản lệ phí mới nhằm phục hồi nền kinh tế còn mong manh trước tác động của kinh tế thế giới đang chững lại.
Hiện nay, cả tổng thống và thủ tướng đều tuyên bố theo đuổi những mục tiêu chung về chính sách đối ngoại. Tổng thống Parvanov tỏ ý tin tưởng sắp tới, Bulgaria sẽ được gia nhập EU và NATO.
Theo Tổng kết thế giới