Theo Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường (NXB Đại học Sư phạm, 2009), những năm đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một hiện tượng đột xuất, đầy tài năng của văn học Việt Nam. Sự nghiệp của Tản Đà trải ra nhiều lĩnh vực như làm báo, viết văn, luận thuyết, viết tuồng, biên khảo, dịch thuật; nhưng cốt cách của ông vẫn là một thi sĩ. Tản Đà chiếm một vị trí đặc biệt trong thi đàn dân tộc.
Bút danh Tản Đà của ông là ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà. Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng, tổ tiên xưa có nhiều đời làm quan dưới triều Lê.
Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ. Năm tuổi, ông học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết. Lên 6 tuổi, ông học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ Quốc ngữ; 10 tuổi biết làm câu đối, thơ văn. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.
Thi nhân Việt Nam vừa là hợp tuyển vừa là nghiên cứu, phê bình phong trào Thơ mới Việt Nam trong năm 1932-1941 do hai anh em nhà văn Hoài Thanh và Hoài Chân biên soạn. Cuốn sách bình luận theo phương pháp chủ quan, được nhiều nhà văn đánh giá rất cao về giọng bình và trình độ cảm nhận của tác giả.
Trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà in ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân dành cho nhà thơ những lời khen tặng danh giá nhất, gọi ông là "con người của hai thế kỷ".
Anh em ở đây, tuy người sau kẻ trước, nhưng ai nấy đều là con đầu lòng của thế kỷ hai mươi. Trên hội Tao đàn, chỉ tiên sinh là người của hai thế kỷ.
...Tiên sinh sẽ đại diện cho một lớp người để chứng giám công việc lớp người kế tiếp. Ở địa vị ấy còn có ai xứng đáng hơn tiên sinh.
Tiên sinh còn giữ được của thời trước cái phong thái vững vàng, cái cốt cách ung dung. Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 với tấm lòng bình thản một người thời trước.
Câu 3: Những câu thơ sau nằm trong tác phẩm nào của Tản Đà?
Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.