Theo sách giáo khoa Văn học lớp 11 (tập một, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003), các nhà thơ nho sĩ ít viết về cuộc sống gia đình, tình cảm riêng tư của mình, càng hiếm viết về người vợ. Có chăng, khi vợ mất rồi, họ mới viết văn tế, làm đối trướng để mà thương khóc. Và như vậy, khó tránh khỏi sự "làm văn" ở trong đó.
Tú Xương thì khác, ông viết về vợ, không chỉ có một hai bài. Ông cũng làm văn tế vợ, nhưng là tế... sống. Không để khóc thương mà để cười thương, cười đùa. Tiếng cười và giọng điệu đùa vui ở loạt bài này vẫn không che lấp tấm lòng thương yêu, quý trọng của Tú Xương với vợ.
Trong loạt bài Tú Xương viết về vợ, Thương vợ được coi là tiêu biểu nhất.
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Bà Tú là Phạm Thị Mẫn, quê Hải Dương, là người hiền thục, tảo tần, rất mực thương chồng con, biết quý trọng tài năng và cá tính của Tú Xương. Bài thơ thể hiện được cả hai mặt của thơ Tú Xương: Ân tình và hóm hỉnh.
Trong hai câu thơ đầu, Tú Xương đã nói được một cách cụ thể về công lao của bà Tú với gia đình: Nuôi đủ năm con với một chồng. Như vậy, bà đã nuôi sáu người.
Sách Giảng văn Văn học Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục, 1998) bình giảng: Chúng ta thấy thấp thoáng nụ cười trào lộng hay đúng hơn là nụ cười tự trào của nhà thơ qua cách tính đếm của ông. Năm con với một chồng, chồng cũng như con để vợ nuôi.
Nụ cười tự trào của Tú Xương, cách đánh giá mình sống nhờ vợ như lũ con có gì rất gần gũi với câu dân gian "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm". Ông đã đánh giá thực trạng kém cỏi của mình, biết công lao vợ phải nuôi mình và năm đứa con.
Câu 3: Hai câu thơ cuối của bài "Thương vợ", tác giả có ý trách ai, điều gì?