Theo giáo sư Hà Tôn Vinh, Đại học Hawaii (Mỹ), cần xác định rõ WTO là sân chơi của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp sẽ phải đi đầu trong "chiến tuyến" này, chứ không phải Nhà nước. Ông đã trả lời phỏng vấn VnExpress nhân đợt tiền trạm cho chuyến thăm của Tổng thống Mỹ G.Bush sang Việt Nam.
> WTO chính thức kết nạp VN/ Công bố toàn văn cam kết WTO
Giáo sư Hà Tôn Vinh là một trong những trí thức Việt kiều đầu tiên tại Mỹ trở về Việt Nam 5 năm trước khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết. Là một chuyên gia về kinh tế thế giới, có mối quan hệ chặt chẽ với chính trường Mỹ, ông Vinh từng giữ vị trí thứ 3 trong danh sách thành viên Phòng Thương mại Mỹ tại VN (Amcham) và góp phần quan trọng vào những cuộc vận động hành lang để thúc giục Quốc hội Mỹ thông qua Quy chế bình thường thương mại vĩnh viễn cho Việt Nam.
- Ông cho rằng gia nhập WTO là một lợi thế. Vậy làm thế nào để vận dụng lợi thế này phát triển kinh tế đất nước?- Nhà nước phải mạnh dạn lùi bước để doanh nghiệp làm đầu tàu phát triển kinh tế. Lâu nay, Nhà nước vẫn bao hết tất cả công việc, vừa quản lý vĩ mô cũng lại đi làm kinh tế. Bây giờ ngược lại, doanh nghiệp phải tham gia vào cơ cấu nhà nước. Khi quyết định những vấn đề chính sách có liên quan đến kinh tế, Nhà nước phải hỏi ý kiến doanh nghiệp. Đây thực sự là cuộc đảo lộn mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp, so với quan điểm bấy lâu nay tại Việt Nam.
Trong suốt 11 năm đàm phán, đồng ý là Chính phủ đóng vai trò chủ đạo để thương lượng, ký kết với các đối tác. Nhưng đàm phán kết thúc, vai trò chính hiển nhiên đặt lên vai doanh nghiệp, phải làm sao thực thi những cam kết chung đó. Cho nên, đã đến lúc Nhà nước phải nhường vai trò dẫn đầu cho doanh nghiệp rồi.
Tôi cho rằng, Việt Nam xác định phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất hay và cực kỳ xác đáng. Song, cần xác định rõ phát triển nền kinh tế thị trường là nhiệm vụ của doanh nghiệp; còn theo định hướng xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm quản lý của Nhà nước. Nếu tách bạch công việc rõ ràng và hiệu quả, chắc chắn Việt Nam sẽ hết sức thành công trong thời kỳ kinh tế hội nhập.
- Song với cơ chế lâu nay của Việt Nam, Nhà nước vẫn luôn đóng vai trò chủ đạo. Để có một sự thay đổi, cần phải như thế nào?
- Theo tôi, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nên bao gồm cả 2 khía cạnh kinh tế xuất khẩu và kinh tế phi xuất khẩu. Xuất khẩu, tập trung vào các lĩnh vực nông sản, giày dép, dầu khí... Còn phi xuất khẩu chủ yếu là đầu tư giáo dục, văn hóa, môi trường... Kinh tế xuất khẩu giao cho doanh nghiệp đảm trách; nhà nước lo kinh tế phi xuất khẩu.
Để tồn tại và phát triển trong WTO, phải luôn giữ vững nguyên tắc "bình thông nhau". Nhà nước giữ vai trò điều tiết trong quản lý, lấy tiền từ khâu xuất khẩu để chuyển sang lĩnh vực không xuất khẩu. Nhà nước càng không nên lập ra các doanh nghiệp để cạnh tranh cùng đồng nghiệp ở các khu vực kinh tế khác.
Đồng thời doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm với cộng đồng, ví dụ như lấy lợi nhuận để đầu tư đào tạo nguồn nhân lực. Như vậy, cả xã hội mới cùng phát triển.
- Theo ông, điểm nào là khâu yếu nhất của Việt Nam sau khi gia nhập WTO?
- Luật hợp đồng. Đây là công cụ còn thiếu của Việt Nam khi hội nhập kinh tế toàn cầu, bởi ta chỉ mới có Pháp lệnh hợp đồng chứ chưa thành luật. Các bộ luật thương mại, kinh tế, đầu tư hiện hành có quy định những điều khoản về hợp đồng nhưng rất ít, chưa đủ để điều chỉnh những hoạt động có liên quan.
Cơ chế, các quy định của WTO có nhiều ràng buộc nhưng rất rõ ràng, minh bạch, doanh nghiệp không sợ bị hẫng khi áp dụng. Thế nhưng khi có tranh chấp xảy ra tại Việt Nam, áp dụng quy định nào trong hợp đồng để xử thì rất khó. Nếu theo WTO xử bằng án lệ thì Việt Nam lại không chấp nhận.
Vào WTO, các vụ kiện kinh tế, thương mại với Việt Nam sẽ tăng gấp 3 lần hiện nay. Chí ít trên những thông tin mà tôi đang nắm được, có khoảng 2.000 trường hợp nước ngoài muốn tiến hành khởi kiện doanh nghiệp Việt Nam trong vòng 1-2 năm đầu gia nhập WTO. Những vụ việc này lâu nay họ muốn kiện nhưng ngại pháp luật Việt nên chưa xúc tiến.
Nếu Việt Nam không có luật hợp đồng, khi bị khởi kiện, doanh nghiệp phải chịu thiệt thòi lớn. Nhiều hợp đồng quy định, khi có tranh chấp thì xử theo luật thương mại, kinh tế... của Việt Nam là không phù hợp và mất thời gian.
- Ông hình dung như thế nào về bức tranh kinh tế - doanh nghiệp Việt Nam trong vài năm tới?
- Theo đúng quy luật, trong 3 năm tới, nền kinh tế Việt Nam sẽ chuyển đổi theo 3 hướng: hình thành nhiều công ty tư nhân nhỏ; xảy ra tình trạng ào ạt mua bán, sáp nhập, sang nhượng doanh nghiệp cho các tập đoàn lớn; hoặc các tập đoàn nước ngoài sẽ tăng cường đầu tư chung với doanh nghiệp Việt Nam dưới nhiều hình thức.
Việt Nam sẽ phải bỏ các quy định về vốn điều lệ, vốn pháp định trong giấy phép kinh doanh đi. Các loại vốn này Nhà nước không thể kiểm tra tính xác thực khi cấp phép đăng ký kinh doanh, mà còn làm trì trệ nền kinh tế Việt Nam. Theo xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu, hàng loạt công ty 1 đôla sẽ ra đời.
Vì vậy tôi cho rằng, kế hoạch của Việt Nam đến năm 2010 sẽ có khoảng 500.000 doanh nghiệp là khả thi. Nhưng ra biển lớn có nhiều sóng dữ, cá to. Cá lớn nuốt cá bé. Chỉ khoảng 20% trong số đó sống được, còn lại phải tính cách khác để tồn tại.
Tuy nhiên theo tôi, doanh nghiệp chả việc gì phải sợ, vì cũng không có gì để mất. Giả dụ khi Wall Mart vào Việt Nam, mua hàng hóa của 78.000 doanh nghiệp trên thế giới, nhưng cũng phải dùng hàng Việt. Như vậy, Wall Mart có thể gây khó cho 3, 4 công ty trong nước, nhưng lại là nguồn tiêu thụ hàng của hàng trăm đơn vị khác. Vấn đề là doanh nghiệp Việt Nam phải biết tùy cơ ứng biến, vào WTO không chỉ cạnh tranh mà còn là cơ hội hợp tác, liên kết để cùng phát triển.
Phan Anh thực hiện