Ông Bá trao đổi với VnExpress nhân dịp tổng két một năm thực hiện cuộc vận động Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt.

Ông Lê Xuân Bá. Ảnh: T.P
- Ông đánh giá như thế nào qua một năm thực hiện cuộc vận động "Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt"?- Đối với doanh nghiệp, cuộc vận động đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền sản xuất trong nước, cho hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp nhìn chung đã ý thức được ý nghĩa của chương trình. Đối với người tiêu dùng, cuộc vận động đã giúp họ từng bước nhận thức đúng đắn hơn khả năng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và chất lượng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của VN.
Theo kết quả điều tra gần đây, sau gần một năm Bộ Chính trị phát động chương trình này, đã có trên 58% người tiêu dùng quan tâm đến hàng Việt, trong khi trước đây còn số này chỉ dừng ở mức khoảng trên 23%.
- Nhưng nhiều nơi vẫn vắng bóng hàng Việt chất lượng cao và giá cả phù hợp, nhất là ở thị trường nông thôn. Ông lý giải điều này thế nào?
- Đúng thế. Theo tôi cái chính là do thị trường nội địa chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Hầu hết các doanh nghiệp VN đều chú trọng phát triển thị trường xuất khẩu mà bỏ quên thị trường trong nước có đến 86 triệu dân. Nhiều doanh nghiệp đang kinh doanh theo kiểu cơ hội, ăn sẵn, thiếu một chiến lược và tư duy tổ chức kinh doanh. Vì vậy, hiện nay thị trường nông thôn, một phân khúc đầy tiềm năng, gần như bị “bỏ trống”, việc phân phối hàng hóa ở đây còn hết sức sơ khai.
Kênh phân phối của các doanh nghiệp VN còn quá yếu, không chuyên nghiệp như các nước trên thế giới, trong khi đó hạ tầng còn chưa đồng bộ. Ngoài ra, do đã bỏ quên thị trường nội địa quá lâu nên các doanh nghiệp phải bắt tay lại từ đầu. Đây là việc làm rất tốn kém cả về thời gian và chi phí.
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp là hết sức cần thiết nhưng còn phải qua phân phối thật tốt, thật hợp lý thì hàng hóa mới tiêu thụ được.
![]() |
Hàng Trung Quốc vẫn lấn át trên thị trường nhờ mẫu mã và giá cả. Ảnh: Hoàng Hà |
- Theo ông nguyên nhân của vấn đề này là gì?
- Doanh nghiệp Việt Nam tuy đông về số lượng, nhưng còn yếu kém, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của sản phẩm thấp. Hơn 90% doanh nghiệp hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhiều hạn chế về tài chính, trình độ lao động, năng lực quản lý, kinh nghiệm kinh doanh,... Trong khi đó, sự hỗ trợ của Nhà nước chưa có hiệu quả.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam có quan niệm nông dân thu nhập thấp nên sức mua kém, lại có phong cách sống tằn tiện nên thường chỉ mua sắm hàng hóa cấp thấp, rẻ tiền. Thậm chí, khi tham gia chương trình “Đưa hàng về nông thôn” quan niệm này vẫn chi phối một số doanh nghiệp, nên họ đưa hàng kém phẩm chất, lỗi mốt, hàng xuất khẩu bị loại, hàng thùng về cho nông thôn, khiến người tiêu dùng bất bình, do đó gây mất lòng tin về hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Nhiều người cho rằng, hàng hóa của Việt Nam chưa khẳng định được chỗ đứng trong cuộc canh tranh với hàng ngoại. Ông nghĩ như thế nào về nhận xét này?
- Mặc dù đã có những cải tiến về chất lượng, mẫu mã nhưng nhìn chung hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn đơn điệu, chất lượng hạn chế, giá thành cao. Giá của một loại hàng hóa có cùng mẫu mã nhưng hàng VN thường có giá cao hơn từ 10–20%. Mỗi tuần Trung Quốc tung ra 1-3 mẫu mới, bình quân hàng tháng có thể đưa ra hàng chục mẫu lạ và có thể cho thu hồi lại các hàng đã lỗi mốt, còn hàng VN lại ít thay đổi. Chế độ bảo hành thường không được thực hiện nghiêm túc, chỉ làm qua loa, chiếu lệ. Điều này cũng góp phần làm cho khách hàng mất lòng tin.
Việc quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước rất kém, bao bì sản phẩm không bắt mắt, nên khó thu hút khách hàng. Thiếu thông tin khiến nhiều mặt hàng có thương hiệu uy tín nhưng khách hành không biết mua ở đâu.
Một thực tế được các chuyên gia chỉ ra là phần lớn người tiêu dùng phải mua hàng ngoại chỉ vì hàng VN chất lượng thấp nhưng lại đắt so với giá trị của nó. Người dân sẵn sàng ủng hộ hàng Việt nhưng không phải ủng hộ bằng bất cứ giá nào.
Các ban, ngành không thể kêu gọi người Việt ưu tiên dùng hàng Việt một cách chung chung, buộc mọi người phải chấp nhận mua hàng nội kém chất lượng, mẫu mã xấu, giá cao hơn hàng ngoại cùng loại được. Trong khi hàng hóa có chất lượng cao, mẫu mã đẹp thì lại đem xuất khẩu, còn hàng xấu, hàng không đạt tiêu chuẩn lại điều về thị trường nội địa.
Mặt khác, nhiều lãnh đạo, cán bộ đi tuyên truyền, vận động người dân dùng hàng Việt mà trên người mặc áo quần, đi giày toàn là hàng ngoại giá tính bằng đôla, thử hỏi làm sao kêu gọi người khác sử dụng hàng Made in Vietnam được.
Trà Phương