Tháng 6/2019, Toyota giới thiệu Fortuner bản lắp ráp với mức giá tăng nhẹ so với bản nhập khẩu Indonesia 2-7 triệu đồng. Quyết định của liên doanh Nhật đến chỉ sau hơn 2 năm kể từ 2017, thời điểm hãng chuyển Fortuner từ lắp ráp sang nhập khẩu nhằm tận dụng ưu đãi thuế 0% khi nhập xe từ các nước ASEAN về bán tại Việt Nam.
Tháng 7/2020, Mitsubishi ra mắt Xpander AT lắp ráp trong nước, mẫu MPV hiện bán chạy nhất thị trường ôtô Việt Nam kèm mức giá không đổi so với bản nhập khẩu, 630 triệu đồng. Phiên bản số sàn MT vẫn duy trì hình thức nhập từ Indonesia. Hôm 21/7, sau nhiều lần phủ nhận, Honda cuối cùng vén màn CR-V phiên bản lắp ráp tại nhà máy ở Vĩnh Phúc. Tuy vậy hãng này chưa tiết lộ giá bán cụ thể, có thể tăng nhẹ. Nhưng với hàm lượng công nghệ an toàn dồi dào hơn nhiều so với bản nhập khẩu, xe lắp ráp tăng nhẹ giá cũng là điều dễ đoán.
Trước nay, xe nhập khẩu do chịu các loại thuế cao nên thường đắt hơn rất nhiều so với xe lắp ráp. Kỳ vọng của khách hàng luôn là "xe lắp ráp phải rẻ". Nhưng Fortuner, CR-V hay Xpander lắp ráp trong nước không như kỳ vọng của người tiêu dùng, giá không thấp, thậm chí cao hơn so với bản nhập khẩu.
Vì sao?
"Chi phí nhập một bộ linh kiện hoàn chỉnh dùng để lắp ráp ôtô từ nhà cung ứng ở nước ngoài khi về Việt Nam còn cao hơn so với nhập một mẫu xe CBU hoàn thiện. Đó là nguyên nhân cơ bản", trưởng phòng truyền thông, bán hàng của một hãng xe Nhật nói. "Giá không thấp hơn so với nhập khẩu nhưng hãng chọn lắp ráp những dòng xe chiến lược như một cách để chủ động hơn về nguồn cung".
Theo vị này, thuế nhập khẩu linh kiện ôtô vào Việt Nam hiện nay trung bình khoảng 7-9%. Khi sản xuất tại Việt Nam, giá xe ban đầu khó giảm so với việc nhập khẩu ôtô nguyên chiếc từ Thái Lan, Indonesia chỉ với thuế 0% theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) có hiệu lực từ 2018.
Một khía cạnh khác chi phối giá xe xuất xưởng là mức nội địa hóa linh kiện. Tỷ lệ nội địa hóa xe con sản xuất tại Việt Nam hiện chỉ đạt 7-10%, thấp hơn nhiều mục tiêu đề ra và dưới con số trung bình của ASEAN (55-60%). Theo báo cáo của Bộ Công thương, ngành xe nói chung hiện chỉ tự làm được các thành phần như săm, lốp, ghế ngồi, bộ dây điện... có hàm lượng công nghệ thấp.
Gọi là sản xuất xe nhưng thực tế tại Việt Nam, quá trình này thuần về lắp ráp các linh kiện nhập khẩu có sẵn. Kể cả khi nhập linh kiện có giá ngang nước sản xuất, khi về nước giá cũng đội lên vì phải chịu chi phí vận chuyển, lưu kho.
Một sản phẩm để tiến tới hạ giá thành cần đạt hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, tức phải sản xuất nhiều, muốn vậy phải tiêu thụ số lượng lớn. Dây chuyền sản xuất nhiều triệu USD cũng cần vài năm để khấu hao vào sản lượng.
"Chi phí sản xuất ôtô tại Việt Nam hiện nhỉnh hơn khoảng 15-20% so với ở nước ngoài", trưởng ban kế hoạch chiến lược một hãng xe Nhật cho biết. "Giả sử cùng mức đầu tư cho một sản phẩm nhưng lượng sản xuất ở Thái Lan cao gấp 2-3 lần Việt Nam thì mức khấu hao sản phẩm/xe ở nước láng giềng thấp hơn, tiền đề để giá thành xe giảm".
Dung lượng thị trường càng lớn, cơ hội tăng sản lượng xuất xưởng một mẫu xe cũng lớn hơn. Xét về khoản này, Việt Nam chưa bằng nhiều nước trong khu vực.
Theo số liệu của Hiệp hội ôtô Đông Nam Á (AAF) trong 2019, xe mới tiêu thụ và năng lực sản xuất ôtô nội địa của Việt Nam xếp thứ 4 khu vực. Indonesia là quốc gia có lượng xe mới bán ra nhiều nhất, Thái Lan dẫn đầu về quy mô xuất xưởng xe mới, trong khi Malaysia xếp thứ 3 xét ở cả hai khía cạnh.
Chỉ ở phân khúc xe sang, việc xe lắp ráp rẻ hơn xe nhập khẩu mới thành hiện thực. Bởi lẽ, hầu hết các xe này nhập khẩu từ châu Âu, Nhật... với thuế nhập khẩu vẫn ở mức cao, khoảng 70%, không được ưu đãi 0% như từ ASEAN. Tuy vậy, với những Hiệp định thương mại đã có lộ trình, thuế nhập khẩu từ các nước này sẽ được cắt giảm theo từng bậc và tiến tới xóa bỏ trong khoảng 10 năm.
Việc một số mẫu xe đạt doanh số tốt chuyển sang lắp ráp còn phản ánh sức nặng của các chính sách ưu tiên thúc đẩy sản xuất xe hơi nội địa từ Chính phủ đã tác động lên nhiều liên doanh. Xpander, Fortuner hay CR-V đều bán hơn 10.000 xe trong 2019 và đang là những dòng xe chủ lực của Mitsubishi, Toyota hay Honda. Chọn lắp ráp bên cạnh một số sản phẩm khác nhập khẩu không chỉ câu chuyện nguồn cung, mà còn là sự cân đối giữa hai dạng thức kinh doanh để thích ứng với những biến động của thị trường ôtô Việt những năm tới.
Thành Nhạn