Xin mượn 4 câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân để diễn tả về tình cảm của mỗi người với quê hương yêu dấu của mình:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
Phải, với mỗi người đi xa, quê hương luôn là nỗi nhớ thương dằng dặc. Và nỗi nhớ ấy lại càng được nhân lên gấp nhiều lần cùng với sự cách trở của nửa vòng trái đất…
Ông là ông chú, em trai của ông nội tôi. Nhưng ông thương cha tôi như là con ruột của mình. Và với chị em tôi, ông quan tâm lo lắng như là ông nội. Tình thế bất đắc dĩ, buộc ông phải rời xa quê khi mà đất nước còn chìm trong khói bom. Suốt bao năm lưu lạc nơi đất khách, nỗi nhớ quê nhà luôn canh cánh bên lòng. Nhưng ông đành cất giấu nơi đáy tim bởi lệnh cấm vận giữa 2 nước Việt Nam - Mỹ như là sợi dây vô hình chia cắt ông và quê hương.
Năm 1993, Mỹ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam. Tin đó đến với ông trong niềm vui mừng khôn xiết. Ngay sau đó, cánh thư đầu tiên vượt nửa vòng trái đất đã đến được với gia đình chúng tôi. Cầm lá thư của ông trên tay, chúng tôi không thể tin đó là sự thật.
Tháng 7/1995, sau khi có quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa 2 nước, việc giao thương đi lại giữa 2 nước trở nên dễ dàng hơn. Đó cũng là lần đầu tiên ông trở về quê sau mấy chục năm xa cách. Người thanh niên ra đi khi mái đầu còn đang xanh và ngày trở về với mái tóc đã điểm nhiều sợi bạc. Làm sao có thể nói hết được cảm xúc bùi ngùi trong giây phút đó, khi mà bước chân đầu tiên đặt xuống sân bay Nội Bài, cảm nhận được mùi đất nồng ấm của quê hương, ông đã khóc. Những giọt nước mắt ngậm ngùi xen lẫn vui mừng dồn nén suốt bao năm bỗng chốc vỡ òa. Kệ cho bao ánh mắt đổ dồn về phía mình, ông cứ mặc cho nước mắt của mình tuôn rơi như thế, cho tới khi cha tôi cất tiếng: “Chú ơi, về nhà mình thôi”.
Người con xa xứ trở về có biết bao nơi muốn đến, biết bao người muốn thăm. Nơi đầu tiên ông tới đó chính là phần mộ của ông bà cố nội tôi, tức 2 cụ thân sinh ra ông. Tay run run cầm nén nhang, ông cúi đầu tạ tội trước vong linh cha mẹ vì đã không thể ở bên phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già và không thể nhìn mặt cha mẹ trong giây phút cuối.
Ông tới thăm từng nhà anh em họ hàng, tới thăm những người bạn thời niên thiếu, cùng nhau ôn lại kỷ niệm thời thơ ấu. Những người bạn một thời với bao trò nghịch ngợm ấy giờ đây đều đã ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy”. Họ gặp lại nhau, vừa ngỡ ngàng, vừa mừng tủi.
Ông không quên rảo bước hàng giờ bên dòng sông Chu, dòng sông gắn với tuổi thơ ông, nơi mỗi chiều ông cùng đám bạn nô đùa ngụp lặn, buổi trưa chốn thầy mẹ ra tắm để về nhà bị những trận đòn lằn mông. Mùa nước lũ về, cùng đọ sức với dòng nước xiết để thi nhau vớt củi.
Chuyến về thăm quê lần ấy để lại trong ông nhiều ưu tư. Ông thương quê mình còn nghèo. Vẫn còn nhiều những em bé ăn xin, vẫn còn cảnh những bà mẹ còng lưng quẩy gánh hàng rong lèo tèo vài mớ rau đem bán với thu nhập vài nghìn đồng lẻ mỗi ngày. Ông thực sự bị ám ảnh bởi những hình ảnh đó. Và thiết nghĩ, phải làm điều gì đó cho quê hương.
Trở về Mỹ, ông lên kế hoạch cho những lần trở về tiếp theo và những việc cần làm. Với đồng lương hưu mỗi tháng quy ra tiền Việt Nam cũng được một món kha khá, cộng thêm sự trợ giúp của con cái, ông đầu tư kinh phí cho nhà thờ, trường học, giúp những em bé nhà nghèo có điều kiện học hành đến nơi đến chốn. Những lần trở về sau đó, ngoài khoảng thời gian ở bên người thân, mỗi ngày ông đều dành thời gian để dạy học tiếng Anh miễn phí cho mọi người, từ các em nhỏ cho tới người đi làm. Có lúc ông dạy tại nhà, có lúc ông lặn lội mười mấy cây số, bất kể trời mưa hay nắng, đến nhà văn hóa hay nhà thờ, thậm chí cả nhà dân để dạy, miễn là mọi người có nhu cầu. Ông nói, đó là niềm vui của ông. Ông muốn làm điều gì đó cho quê mình, cho dân mình, trong khả năng của ông.
Thời gian cứ thế trôi đi, tuổi ông ngày một cao, những chuyến bay khứ hồi giữa 2 nước Mỹ - Việt của ông ngày một thưa dần. Thấy sức khỏe của ông có dấu hiện đi xuống, gia đình của ông bên Mỹ ngăn cản không cho ông về Việt Nam nữa. Bác sĩ cũng khuyên ông không nên ngồi máy bay trong tình trạng tuổi cao sức yếu và bệnh tăng huyết áp có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Không thể trở về Việt Nam, hàng tháng ông vẫn trích ra một khoản tiền gửi về các địa chỉ từ thiện. Trong lòng ông ấp ủ một mong ước cuối đời đó là được trở về sống những ngày cuối cùng tại quê hương, được trút hơi thở cuối cùng bên những người thân yêu ruột thịt, để vĩnh viễn được nằm trong lòng đất mẹ. Nhưng biết làm sao cho vẹn cả đôi đường khi giờ đây Mỹ đã trở thành quê hương thứ 2 của ông, nơi có gia đình ông: có bà, các con, các cháu ông đã bén rễ xanh cây suốt 3 thế hệ. Vì lẽ đó, ước nguyện trở về lại một lần nữa được giấu kỹ nơi đáy tim.
Theo lời kể lại của cô Thảo - con gái ông - đêm trước ngày ông ra đi, đột nhiên thấy sức khỏe của ông khá lên trông thấy. Ông dậy sửa soạn quần áo, đồ dùng cá nhân, gói ghém vào vali như chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài ngày. Thế rồi đêm đó, huyết áp của ông đột ngột tăng cao, ông phải vào bệnh viện cấp cứu. Trong tình trạng sức khỏe của mình như thế, ông vẫn cố gắng rỉ tai vị bác sĩ: “Tôi có thể về Việt Nam được nữa không?”. Và sau khi nhận được câu trả lời là một cái lắc đầu đầy kiên quyết thì ông gần như tuyệt vọng. Ông ra đi ngay đêm hôm đó, để lại một cuộc hành trình còn dang dở. Nhưng với gia đình tôi, với những người thân bên Việt Nam, ông thực sự đã trở về, một sự trở về vĩnh viễn, không còn đại dương nào có thể ngăn cách.
Phan Thị Huệ