VN đứng thứ 9 về sản lượng của với thế giới. |
Năm 2004, VN đã xuất khẩu được 100.000 tấn chè trực tiếp sang 68 thị trường, đạt kim ngạch 100 triệu USD. Kết quả thực hiện 8 tháng đầu năm nay là 45.000 tấn, kim ngạch 47 triệu USD.
Tại cuộc hội thảo về "Thực trạng và giải pháp phát triển ngành chè" do Hiệp hội chè VN vừa tổ chức mới đây, nhiều ý kiến cho rằng, dù có lợi thế về xuất khẩu song ngành chè vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần giải quyết.
Theo Tổng thư ký Hiệp hội chè VN Nguyễn Tấn Phong, trở ngại lớn nhất của ngành hiện vẫn là vấn đề vùng nguyên liệu. Hiện nay, cả nước có 34 tỉnh, thành phố với diện tích đất canh tác để trồng chè với phạm vi phân bố khá rộng. Tuy nhiên, diện tích trồng chè này vẫn chưa đáp ứng được sự bùng nổ của các cơ sở sản xuất tại các địa phương. Chỉ tính từ năm 1999 đến nay, số cơ sở chế biến đã tăng gần 3 lần với hàng vạn lò chế biến thủ công nhỏ ở khắp các tỉnh trọng điểm ở trung du và miền núi phía Bắc. Đó là chưa kể hơn 600 doanh nghiệp sản xuất và chế biến chè có đăng ký kinh doanh.
Ông Phong lo ngại việc có quá nhiều lò chế biến trên một vùng nguyên liệu chật hẹp đã xảy ra tình trạng tranh mua, tranh bán giữa các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. "Với sự phát triển công nghệ chế biến ở các tỉnh trọng điểm chè đã xảy ra tình trạng tranh mua tranh bán quyết liệt thậm chí dẫn đến đổ máu như ở vùng chè Thanh Ba vào trung tuần tháng 7", ông Phong nói.
Một vấn đề khác được nhiều người tại hội thảo đề cập là giá búp tươi biến động có lợi cho nông dân, song lại xuất hiện tình trạng khai thác quá mức khiến cây chè bị kiệt quệ. Nếu năm 1995, giá chè búp tươi bình quân chỉ đạt 1.131 đồng/kg (có thời điểm chỉ 500 đồng/kg) thì đến thời điểm này giá chè đã tăng gấp 2-3 lần.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Tạo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chè VN cho rằng, do mạng lưới chế biến phát triển quá nhanh, nhiều vùng mang tính tự phát, phi quy hoạch, không tương xứng với năng suất và sản lượng nguyên liệu. Hậu quả là cây chè bị suy kiệt về dinh dưỡng. Cái vòng luẩn quẩn này cuối cùng lại tác động trực tiếp và tiêu cực đến người nông dân.
Thách thức lớn đối với ngành chè VN trước ngưỡng cửa hội nhập, theo các chuyên gia trong ngành, là vấn đề chất lượng.
Ở nhiều vùng chè, hệ thống chế biến còn chắp vá và không theo một hệ thống quy chuẩn nào. Không ít những cơ sở sản xuất chè chỉ làm từng công đoạn đơn giản như mua gom hoặc làm héo sản phẩm, sau đó thực hiện nốt những công đoạn chế biến còn lại ở cơ sở sản xuất hoặc ở doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, tình trạng chia nhỏ, tách rời một hệ thống chế biến, chỉ bán những sản phẩm sơ chế thứ cấp đã dẫn đến bất ổn định về chất lượng sản phẩm. Hậu quả là chè bị chát khét, không đảm bảo tiêu chuẩn, chè lẫn loại do sàng phân loại chưa đúng quy trình công nghệ, dẫn đến tình trạng những sản phẩm thế giới cần thì VN không có.
Giám đốc Công ty Chè Mộc Châu Phạm Tiến Lộ cho rằng, bất cập này xuất phát từ việc ở mỗi địa phương không quy hoạch rõ ràng về vùng nguyên liệu cho các doanh nghiệp trên địa bàn mình.
Theo Hiệp hội chè VN, ở tỉnh Phú Thọ điển hình nhất về sự bất cập giữa vùng nguyên liệu và hệ thống chế biến là vùng Thanh Ba - Hạ Hòa. Trên 1 vùng có tổng diện tích 6.419 ha, sản lượng 31.000 tấn chè búp(tương đương 6.800 tấn thành phẩm) mà có tới 49 cơ sở chế biến với công suất 544 tấn/ngày tương đương 16.300 tấn sản phẩm/năm. Như vậy, số cơ sở sản xuất toàn địa bàn với tổng công suất vượt quá 2,4 lần năng lực sản xuất nguyên liệu trong vùng. Hà Giang có sản lượng chỉ bằng 50% Phú Thọ nhưng có tới 400 hộ chế biến chè với quy mô nhỏ, bên cạnh 13 doanh nghiệp và 31 hợp tác xã chế biến. Ở Thái Nguyên trong 12.000 ha chè kinh doanh có gần 10.000 ha rải rác trong các hộ gia đình. Cả tỉnh có 9 doanh nghiệp chế biến chè công nghiệp nhưng có đến 3.000 máy vò sào mini. Hầu hết các nhà máy đều không có vùng nguyên liệu riêng. Vì vậy, hiện tượng đẩy giá nguyên liệu lên cao đã thành "cuộc chiến" giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với hàng nghìn lò vò. Cuộc chiến này không chỉ làm cho doanh nghiệp lao đao mà còn khiến cho người trồng chè tới đây sẽ khó khăn nhiều, do cây chè bị kiệt sức vì khai thác quá mức. |
Minh Khuyên