Đây là một trong những nội dung được nêu tại quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 vừa được Phó thủ tướng Trần Hồng Hà phê duyệt.
Theo quy định hiện nay về cơ cấu dự trữ xăng dầu của Việt Nam đến từ 3 nguồn: dự trữ thương mại tại các doanh nghiệp kinh doanh đầu mối (20 ngày) và thương nhân phân phối 5 ngày; dự trữ sản xuất tại hai nhà máy lọc dầu và dự trữ quốc gia.
Hiện nguồn dự trữ quốc gia tương đối mỏng, khoảng 5-7 ngày nhập khẩu ròng, nhưng để đảm bảo an ninh năng lượng, mức này không đủ. Như vậy, với mục tiêu đưa ra tại quy hoạch lần này, mức dự trữ xăng dầu của Việt Nam đến 2030 sẽ tăng gấp 10-11 lần hiện nay.
Quy hoạch cũng đặt mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7% một năm tới 2030 và khoảng 6,5-7,5% một năm đến 2050. Tổng nhu cầu năng lượng cuối cùng là 107 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030 và đạt 165-184 triệu tấn dầu quy đổi năm 2050.
Về phát triển ngành công nghiệp năng lượng, khai thác dầu thô tới 2030 đạt khoảng 6-9,5 triệu tấn mỗi năm, và tăng gấp rưỡi vào 2050. Sản lượng than khai thác 41-47 triệu tấn thương phẩm mỗi năm. Việc thử nghiệm khai thác bể than sông Hồng được tiến hành trước năm 2040, và khai thác quy mô công nghiệp trước 2050 nếu thử nghiệm thành công.
Với nguồn năng lượng mới như hydro xanh, quy mô sản xuất sẽ khoảng 100-200 nghìn tấn một năm vào 2030 và đạt khoảng 10-20 triệu tấn mỗi năm vào 2050.
Bảy năm tới, Việt Nam cũng sẽ hình thành và phát triển một số trung tâm năng lượng sạch, gồm sản xuất và sử dụng năng lượng, công nghiệp chế tạo thiết bị năng lượng tái tạo, dầu khí tại Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ.
Về chuyển đổi năng lượng công bằng, quy hoạch đặt mục tiêu tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng sơ cấp là 15-20% năm 2030 và khoảng 80-85% năm 2050. Việt Nam cũng tính giảm 17-26% khí nhà kính bảy năm tới, và mức này sẽ tăng lên 90% vào 2050 để đạt mục tiêu giảm phát thải ròng về 0 theo cam kết tại COP 26.
Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch đặt ra các giải pháp về huy động, phân bổ vốn đầu tư; giải pháp về chính sách, hợp tác quốc tế và giám sát thực hiện. Những giải pháp trên góp phần giúp Việt Nam chuyển đổi năng lượng, phát triển ngành công nghiệp độc lập tự chủ và hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Việc này nhằm đưa Việt Nam trở thành trung tâm công nghiệp năng lượng sạch và xuất khẩu năng lượng tái tạo của khu vực Đông Nam Á.