Năm 1942, sĩ quan cấp cao thuộc lực lượng SS Herman Höfle là phó chỉ huy trong hoạt động Reinhard: tiêu diệt những người Do Thái sống trên đất Ba Lan đang bị chiếm đóng. Chính Höfle đã lên kế hoạch trục xuất những người Do Thái ở Warsaw, Lublin, Radom, Cracovie và Lvov. Chính Höfle đã giám sát việc xây dựng các trại giết người Sobibor, Treblinka và Belzec. Chính Höfle đã cho xây các phòng hơi ngạt và các lò thiêu người. Cũng chính con người này đã bị luật pháp Ba Lan truy đuổi. Tháng 2/1954, CIA đã quyết định tuyển dụng y dưới cái tên giả Hans Hartman, với mức lương 100 DMark/tháng.
Nhưng sự nghiệp tình báo trong quân đội Mỹ của Höfle không được dài lâu. Kể từ tháng 6/1954, y bị cho thôi việc, vì hoạt động không hiệu quả. Đơn độc, không ai bảo vệ, Höfle bị bắt vì tội ác chiến tranh năm 1961 và tự sát trong nhà tù ở Vienne (Áo).
![]() |
Klaus Babie. |
Klaus Barbie - "tên đồ tể Lyon", kẻ chịu trách nhiệm tra tấn và giết hại hơn 26.000 người - cũng là một trường hợp như vậy. Nhân vật này nguyên là người đứng đầu lực lượng Gestapo ở Lyon (Pháp), trở thành nhân viên của của CIC từ năm 1947 đến năm 1951 ở Bavière (Quebec, Canada). Barbie trốn sang Mỹ Latinh để khỏi bị Pháp bắt và trở thành công dân Bolivia năm 1957. Năm 1983, y bị Bolivia dẫn độ sang Pháp. Barbie bị kết án chung thân năm 1987 và chết trong tù vì bệnh ung thư năm 1991.
Còn bao nhiêu Barbie như vậy nữa? Thời Chiến tranh Lạnh, Mỹ không muốn trả lời những câu hỏi như vậy. Nhưng kể từ khi bức tường Berlin sụp đổ, dưới sức ép của nhiều tổ chức phi chính phủ và các nghị sĩ, Washington bắt đầu thừa nhận những mối liên hệ trong quá khứ với các nhân vật thuộc phát xít Đức. Năm 1990, CIA công khai các tài liệu về hoạt động bí mật mang tên Paperclip: việc tuyển một số nhà khoa học Đức (trong số này phải kể đến Wernher von Braun, cha đẻ của loại tên lửa V-2 và chương trình vũ trụ của Mỹ). Bill Clinton còn đi xa hơn. Năm 1998, ông cho tiến hành bỏ phiếu thông qua một đạo luật buộc tất cả các cơ quan, bao gồm cả các cơ quan tình báo, công khai các tài liệu của họ về tội phạm phát xít Đức. Việc này sẽ kết thúc vào năm 2003.
Hàng nghìn hồ sơ đã được công bố trong năm nay. Nhờ vậy, nhiều chuyện đã sáng tỏ. Ví dụ, trước kia có lời đồn một số nhân vật phát xít rất có máu mặt đã bắt tay với CIA. Người đứng đầu Gestapo, Heinrich Müller, mất tích vài ngày trước khi chế độ phát xít Đức sụp đổ. Khi đó, Liên Xô cho rằng y đã trở thành nhân viên tình báo Mỹ. Nhưng hóa ra, Müller chưa từng làm cho CIA, trái lại cơ quan này đã nhiều lần tìm bắt nhân vật này nhưng thất bại. Có lẽ y đã chết từ tháng 5/1945.
Nhưng các phát hiện khác thì chẳng hay ho gì. Có rất nhiều “đao phủ” phát xít trong hàng ngũ tình báo Mỹ. "Tổng cộng, có ít nhất vài chục, thậm chí hơn trăm trường hợp", nhà sử học Richard Breitman, đang chuẩn bị một bản báo cáo về chủ đề này cho Quốc hội, nhận định.
Nguyên nhân của hoạt động tuyển lựa
Những sĩ quan Đức đầu tiên được tuyển mộ là hồi mùa xuân năm 1945. Quân đội Mỹ muốn ngăn những nhân vật cỡ bự thuộc phát xít Đức bỏ trốn, trong khi nhiều người thuộc SS và Gestapo sẵn sàng phanh phui các cựu chỉ huy của họ để tự cứu mạng. Sự thỏa hiệp này khiến nhiều một số sĩ quan Mỹ lo lắng. Một người trong số họ hồi tháng 1/1945 đã viết: "X. là một kẻ nguy hiểm. Để khỏi bị tố cáo là bắt tay với một kẻ phát xít, tôi tin rằng chúng ta nên quan hệ với những người này càng ít càng tốt".
Nhưng chỉ trong vòng vài tháng, tình hình đã thay đổi nhanh chóng. Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Kẻ thù không còn là nước Đức bại trận. Từ ngày 1/3/1946, CIC nhận định rằng mục tiêu chính của họ bây giờ là Liên Xô. Cần phải biết rõ nội tình Hồng quân và NKVD (tiền thân của KGB). Cũng cần phải thâm nhập các đảng cộng sản châu Âu, những "con ngựa gỗ thành Troy" của Matxcơva. Nhưng lực lượng phản gián Mỹ không có cả thông tin lẫn người đưa tin. Phát xít Đức lại có 10 năm đi trước. Kể từ những năm 30, các gián điệp phát xít đã lập nên những mạng lưới nhân viên dày đặc ở Liên Xô và Đông Âu và nắm trong tay hàng nghìn tập tài liệu.
Mỹ quyết định tận dụng điều này. Một trong những quan chức của CIC ở châu Âu, Richard Helms - sau này trở thành giám đốc CIA hồi cuối thập kỷ 60 - đã ghi vào sổ tay của mình tháng 9/1946: "Việc cấp bách nhất hiện nay là tìm tất cả những người Đức từng tìm hiểu về Nga và những ai có thể làm tiếp công việc này cho chúng ta". Helms không loại trừ ai, cho dù đó là phát xít Đức, hay SS.
![]() |
Reinhard Gehlen. |
Không phải tất cả các sĩ quan Đức bắt tay với Mỹ chống Liên Xô đều là tội phạm chiến tranh cả. Chẳng hạn, các cựu thành viên của Abwehr - cơ quan thông tin trong quân đội Đức - thường là những người đối địch với SS, đôi lúc còn công khai chống lại chế độ phát xít. Người nổi tiếng nhất trong số này là Reinhard Gehlen. Ông này lãnh đạo Abwehr ở mặt trận phía đông và giúp Mỹ từ tháng 6/1945, trước khi trở thành người sáng lập BND (Cơ quan tình báo Tây Đức) năm 1956.
Một số nhân vật khét tiếng
Nhưng CIC cũng tuyển lựa nhiều nhân vật bất hảo. Ví như bác sĩ Emil Ausburg, tức Alberti, hay Althaus, được đưa vào làm từ ngày 1/5/1947. Phiếu nhận dạng của y miêu tả đây là một con người "cao lớn: 1m85, bị bạch tạng, hút thuốc lá rất khỏe". Người ta thêm vào rằng y là thành viên của đảng Phát xít và là một đại úy SS. Vậy tại sao y được thu nạp? Vì đây là một trong những chuyên gia am tường nhất về thế giới cộng sản. Ausburg từng lãnh đạo Viện Wannsee ở Berlin, một viện chuyên nghiên cứu về Đông Âu phục vụ cho SS. Y có trong tay tất cả thông tin mà các nhân viên của phát xít Đức ở Liên Xô thu thập được.
Nhưng trong hồ sơ của CIC cũng nhắc đến chuyện Ba Lan đang truy lùng Emil Augsburg vì các tội ác chiến tranh. Trước khi vào Viện Wannsee, năm 1940 và 1941, vị bác sĩ giỏi giang này đã tham gia tổ chức Đặc công Einsatz, chuyên tiến hành những hoạt động "đặc biệt" ở Nga và Đông Âu: thảm sát người Do Thái và các nhân vật khác mà phát xít Đức muốn loại trừ.
Biết vậy nhưng quân đội Mỹ vẫn không giao Emil Augsburg cho tòa án Ba Lan. Kẻ sát nhân làm việc cho CIC cho đến năm 1956. Cuối cùng, Augsburg gia nhập BND và làm cho Cơ quan tình báo Tây Đức này trong 10 năm, mãi đến 1966.
![]() |
Wilhelm Höttl. |
Một ví dụ nữa là sĩ quan SS Wilhelm Höttl, được tuyển dụng năm 1948. Tháng 5 và tháng 6/1944, y tham gia vào hoạt động trục xuất 440.000 người Do Thái ở Hungary, đưa họ vào trại Auschwitz. Bị Mỹ bắt năm 1945, y ra làm chứng ở Nuremberg. Chính y đã cung cấp những "số liệu tính toán" đầu tiên về hoạt động thảm sát người Do Thái. Tại phiên tòa, Höttl tuyên bố: "Cuối tháng 8/1944, Eichmann nói với tôi tại các trại, chừng 4 triệu người Do Thái đã bị giết và 2 triệu người khác bị thủ tiêu bằng các cách khác. Ông ấy còn nói con số này là một bí mật quốc gia". (Adolf Eichmann là kẻ phụ trách hoạt động thảm sát người Do Thái trên toàn châu Âu. Y bị Tòa án Israel kết án tử hình tháng 2/1961 và bị treo cổ tháng 5/1962).
Höttl - kẻ thân tín của Eichmann - được quân đội Mỹ trả tự do năm 1947 và vào làm tại văn phòng CIC ở Vienne. Các sĩ quan Mỹ không đồng lòng nhất trí về quyết định sử dụng y. Một người nhận định: "Nếu chuyện chúng ta dùng Höttl mà vỡ lở thì làm sao giải thích với những người Đức và Áo trong sạch đây?".
CIC ở Vienne sau đó phó thác cho cựu sĩ quan SS này 2 mạng lưới thông tin. Một là một hệ thống có biệt danh "Núi Vermont", chuyên do thám khu vực thuộc Áo do Nga kiểm soát. Mạng lưới có chừng 20 người cấp tin, trong đó có "Edi" và "Walter", 2 cựu trung úy của SS. Mạng lưới thứ 2, biệt danh "Montgomery", có nhiệm vụ thâm nhập các lực lượng Nga đóng ở Hungary. Phó của Höttl là một nhân vật Hungary cuồng loạn có tên Karoly Ney, từng lập ra phân đội SS ở nước mình. Về sau, Ney được thay bằng một cựu thành viên SS khác, Enrich Kernmayer, người trong thời chiến đã phụ trách một số tạp chí ở thành Viennes cướp từ tay các chủ báo Do Thái.
Một năm sau, Höttl bị CIC sa thải vì hoạt động kém, nhưng cơ quan CIA non trẻ ngay sau đó đã thu nhận y. Höttl được trả lương 600 DMark/tháng cho tới năm 1954. Lúc này, đến lượt CIA quyết định tách mình khỏi "kẻ lừa đảo". Nhưng tên tội phạm đã tích lũy được kha khá vốn. Thời chiến tranh, y đã cướp được rất nhiều tài sản của người Do Thái, nhất là đồ trang sức. Höttl mở một nhà xuất bản ở Vienne và chết vào năm... 1997, cả đời không lúc nào phải vướng bận gì.
Chưa hết. Tháng 12/1947, trong lúc phương Tây lo sợ Đảng Cộng sản sẽ lên nắm quyền ở Italy, CIC quyết định giao cho một cựu sĩ quan SS có tên Karl Haas mạng lưới do thám ở Rome có mật danh "Los Angeles". Haas và các nhân viên của mình có nhiệm vụ "thu thập những thông tin về hoạt động và các nhân vật trong đảng Cộng sản và lập ra danh sách những thành viên nguy hiểm nhất". Thế những người cấp tin cho Haas, bị quân đội Mỹ mua chuộc là ai? Đó là một số "quan chức ở Vatican" (trong đó có người phụ trách cơ quan báo chí), nhưng bên cạnh đó còn có 2 cựu quan chức thuộc tổ chức của Mussolini, chuyên ám sát những người Italy chống phát xít, cùng "các thành viên của một phong trào phát xít bí mật mới".
Năm 1948, CIC ở Rome còn tính đến việc đặt một nhân viên cố định ở Palermo, thủ phủ đảo Sicily. Một sĩ quan Mỹ giải thích kế hoạch như thế này: "Ở Palermo, một cựu thành viên của SD (cơ quan do thám của SS) khẳng định có quan hệ trực tiếp với trùm mafia Giuliano và băng nhóm của ông ta. Còn ai có thể thực hiện các hoạt động bí mật của chúng ta tốt hơn kia chứ. Mà chúng ta mất có 200 USD/ tháng thôi". Liệu CIC có dùng Giuliano không? Các tài liệu còn chưa đề cập đến điều đó.
Các hồ sơ mới công bố còn cho ta biết một số thông tin về cuộc bỏ trốn của các tội phạm chiến tranh tới khu vực Mỹ Latinh. Chẳng hạn một tài liệu bí mật của CIA đề ngày 3/4/1950 miêu tả điều kiện sống của những nhân vật này ở Bolivia: "Khoảng 1.200 - 1.800 cựu thành viên phát xít đã di dân tới Nam Mỹ sau năm 1946. Họ (một số đi cùng vợ) sống trong các khu dọc thung lũng sông Madidi và Beni ở vùng Tây Bắc của Bolivia. Miền đất này trải dài chừng 15 km trên bờ của hai con sông. Mỗi khu đều được trang bị tối thiểu 2 súng máy (số súng máy tổng cộng là 500), một con số đáng kể vũ khí hạng nhẹ do Đức sản xuất và lượng lớn đạn dược. Tất cả những người sống lưu vong này đều nói tiếng Tây Ban Nha rất kém".
Có bao nhiêu trong số nhân vật này đã được các cơ quan Mỹ sử dụng? Đến nay, đó vẫn là điều bí hiểm.
Minh Châu (theo Le Nouvel Observateur)