Câu chuyện cũng không có gì đặc biệt so với chuẩn hóa đào tạo, ngoài việc họp tương đối nhiều. Tuy nhiên, góc nhìn mới đã thay đổi một số nhận định của tôi về tuyển sinh.
Là giảng viên năm cuối, tôi thường không quan tâm lắm tới đầu vào. Một phần vì tôi không liên quan. Một phần vì trong nhận định của tôi, học đại học khá đơn giản. Sinh viên chỉ cần muốn học là sẽ tốt nghiệp. Làm công tác chuẩn hóa giáo dục, tôi thấy giáo dục hiện đại còn được hỗ trợ rất mạnh bởi hệ thống lý thuyết sư phạm đầy đủ, công nghệ cao và các nền tảng chia sẻ, nên việc học bây giờ dễ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, khi phải điều phối cả chương trình, tôi phát hiện ý nghĩa quan trọng của công tác tuyển sinh, ít nhất là đối với các đại học của Australia.
Về bản chất, tuyển sinh là một phép ghép đôi giữa nguyện vọng của người học và đặc thù đào tạo của trường. Khác với Việt Nam, khi hầu hết sinh viên đều tốt nghiệp, khoảng 25% sinh viên của Australia không vượt qua năm nhất, sau đó, mỗi năm lại có thêm một lượng rơi rụng. Khoảng 32,9% sinh viên nhập học năm 2012 không tốt nghiệp sau mười năm, kể cả bảo lưu. Một số khảo sát đã chỉ ra mười lý do phổ biến nhất liên quan tới hiện tượng này. Đứng trong top 3 đều là các lý do liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới tuyển sinh: Không cảm thấy phù hợp với ngành nghề nữa; Không theo kịp nhịp độ của việc học đại học; và Không có đủ các kỹ năng hoặc kiến thức cần thiết. Khi không thấy phù hợp, sinh viên Australia dễ dàng buông bỏ, vì họ có các lựa chọn khác không hẳn là tệ.
Đối với Việt Nam, tỷ lệ có thể khó đoán hơn. Ví dụ, một trường kỹ thuật ở TP HCM cho biết mỗi năm có khoảng 10-20% sinh viên bị buộc thôi học. Thế nhưng, đâu đó có thể còn một lượng lớn sinh viên cố gắng tiếp tục học và tốt nghiệp để rồi sau đó làm một ngành nghề hoàn toàn khác, không dùng tới kiến thức đã được học. Nói cách khác, bằng đại học đôi lúc không phải chứng chỉ đào tạo, mà chỉ là chứng chỉ cho khả năng có thể học.
Việc bỏ học (hoặc tiếp tục học mà không sử dụng) không chỉ là sự hoang phí của cá nhân, mà còn là sự lãng phí nguồn lực xã hội: đào tạo những người không cần, và tước đoạt đi cơ hội của những người mong mỏi được đào tạo. Thế nên, với một số ngành nghề đặc biệt cần nhiều nguồn lực xã hội để đào tạo, như y khoa, Australia đã phải sử dụng phương pháp tuyển sinh riêng. Thí sinh muốn nhập học y khoa ngoài điểm tốt nghiệp cao, còn phải trải qua một kỳ thi đầu vào cho các ngành học lâm sàng (UCAT) với năm phần thi kiểm tra khả năng tư duy logic và ra quyết định. Ngay cả như vậy, vẫn có bốn trường không sử dụng UCAT mà áp dụng biện pháp tuyển sinh đặc biệt là Đại học Bond, Đại học Sydney, Đại học Melbourne và Đại học James Cook. Trong đó Bond là trường tư thục, còn ba trường còn lại có các đặc thù đào tạo riêng. Ví dụ, Đại học James Cook có vòng phỏng vấn, tập trung vào năm chủ đề: Động lực theo đuổi ngành y; Tính cách và kỹ năng; Áp dụng y đức trong trường hợp cụ thể; Hiểu biết về hệ thống y tế và các thách thức, áp lực của ngành; Một số đặc thù liên quan tới đào tạo của trường như việc chăm sóc sức khỏe cho thổ dân. Có điều này là bởi vì James Cook hướng tới việc đào tạo bác sĩ cho vùng chưa phát triển. Ngay cả khi tuyển sinh như vậy, tỷ lệ bỏ cuộc của ngành y khoa vẫn khoảng 10%.
Câu chuyện tuyển sinh đại học nói chung của Australia bỗng đột nhiên bị tăng vọt áp lực trong giai đoạn Covid. Do hạn chế về đi lại, lượng sinh viên quốc tế giảm hẳn khiến các đại học lớn hạ điểm chuẩn đầu vào để với xuống "miếng bánh" của các đại học vùng. Lúc này mới thấy rõ ràng rằng, trong đặc thù đào tạo của trường còn có cả khía cạnh kinh tế, dù là các đại học top 100 thế giới với sự đầu tư lớn của chính phủ.
Vừa qua, ở Việt Nam bốn trường sử dụng môn văn để xét tuyển ngành y khoa, gây nên nhiều tranh luận. Có bác sĩ khẳng định môn văn cần cho nghề y. Có bác sĩ nói không giỏi văn chẳng lẽ không thương người. Mỗi người đều có lý lẽ riêng. Từ góc độ của điều phối viên chương trình đào tạo, phản ứng đầu tiên của tôi không phải việc người học giỏi văn có thể làm bác sĩ hay không, mà là sự thay đổi này có tác động thế nào tới phổ tuyển sinh.
Chẳng hạn, nếu môn Hóa và Văn đều xuất hiện như một môn thứ ba trong tổ hợp tuyển sinh y khoa (bên cạnh hai môn khác), chuyện gì sẽ xảy ra?
Tôi tin rằng học sinh giỏi Hóa sẽ đăng ký tổ hợp có Hóa thay vì có Văn. Tôi cũng chủ quan rằng kiến thức phổ thông không quá phức tạp. Nếu học sinh không giỏi Hóa, thì không phải bởi không có tư duy Hóa học, mà có thể là vì chưa yêu môn Hóa đủ nhiều.
Mặc dù việc không giỏi Hóa có thể gây ra một số khó khăn nhất định cho quá trình đào tạo, nhưng tôi chủ quan rằng sinh viên Việt Nam đã vào trường là phần lớn sẽ ra trường. Nhất là học sinh được tuyển vào y khoa đều là học sinh giỏi (trừ khi có cơ sở đào tạo thay đổi tuyển sinh để tuyển người không giỏi). Thế nên, tôi không tin rằng sự thay đổi này làm tăng số sinh viên y khoa bỏ cuộc, hay giảm số bác sĩ cung cấp cho thị trường lao động.
Tác động lớn nhất của thay đổi này là việc có một số lượng bác sĩ không có thiện cảm với môn Hóa (hoặc một môn khác) bằng môn Văn. Điều này ảnh hưởng thế nào tới chuyên môn, thì cơ sở đào tạo sẽ chịu trách nhiệm, nhưng xã hội là đối tượng chịu hậu quả.
Thông thường, việc thay đổi tuyển sinh phải đi kèm với thay đổi quy trình đào tạo. Nếu không, câu hỏi đặt ra sẽ là: thay đổi phương thức tuyển sinh là để phù hợp với đặc thù đào tạo nào đó mới của trường, hay là nhằm mục đích "ăn một miếng bánh khác" trong phổ tuyển sinh để đảm bảo kinh tế?
Tô Thức