Tôi từng là lãnh đạo một công ty cổ phần thuộc vùng I và nghỉ việc từ 1/7/2024. Tính đến tháng 6/2024, tôi tham gia bảo hiểm thất nghiệp được 15 năm 6 tháng, tiền lương đóng trước khi nghỉ việc là 60,5 triệu đồng mỗi tháng.
Ngày 5/7/2024, tôi nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp thì được thông báo tiền hưởng mỗi tháng 23,4 triệu đồng, tức bằng 5 lần mức lương tối thiểu vùng cũ tính theo tháng liền kề trước khi nghỉ. Cơ quan chức năng giải thích mức tiền trợ cấp tính trên mức đóng, thời gian đóng căn cứ khoản 3 Điều 41 Luật Việc làm.
Nhưng tôi băn khoăn nếu tính như trên, tiền trợ cấp của tôi phải là 60.500.000 đồng x 6 tháng/6 x 60% = 36.300.000 đồng/tháng. Cho tôi hỏi quy định hưởng cụ thể thế nào và mức tiền bao nhiêu mới đúng?
Hoàng Trung
Theo luật hiện hành, mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp. Khoản 1 Điều 50 Luật Việc làm quy định mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc, tối đa không quá 5 lần lương cơ sở với lao động khu vực nhà nước hoặc không quá 5 lần lương tối thiểu vùng với người làm việc theo hợp đồng trong doanh nghiệp.
Nghị định số 38/2022 quy định mức lương tối thiểu với người làm việc theo hợp đồng lao động tại vùng 1 áp dụng đến ngày 30/6/2024 là 4.680.000 đồng.
Căn cứ các quy định trên, mức đóng và tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp cuối cùng của ông là tháng 6/2024. Vì thế, mức hưởng tối đa được tính theo lương tối thiểu vùng tại thời điểm này, tức 5 x 4.680.000 đồng = 23.400.000 đồng/tháng.
Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội