Từ khi hình thành hơn 6.000 năm trước, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vốn là vùng đất được “nuôi dưỡng” bởi lũ. Mỗi con nước tràn về mang theo phù sa và trầm tích, bồi đắp, nâng cao địa hình, bù lại quá trình sụt lún tự nhiên, đồng thời mang theo tôm cá - sinh kế cho người dân.
Tuy nhiên, nguồn dinh dưỡng tự nhiên này đang ít dần, khiến hệ sinh thái của đồng bằng ngày càng mong manh. Tổng lượng phù sa về ĐBSCL hiện giảm 60-70% so với trước năm 2000, chỉ còn 35-50 triệu tấn mỗi năm (đo tại trạm Kratie, Campuchia), trong khi tình trạng sụt lún ngày càng nghiêm trọng do khai thác nước ngầm quá mức.
17% sản lượng cá nước ngọt toàn cầu bắt nguồn từ Mekong. Nhưng giờ đây, nhiều loài thú lớn, bò sát, chim và cá - đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế cao - đã tuyệt chủng cục bộ hoặc cực kỳ hiếm gặp. 90% cư dân lưu vực Mekong là nông dân, sống dựa vào phù sa màu mỡ và nguồn thủy sản từ dòng sông. Khi nguồn lợi này suy giảm, sinh kế của họ bị ảnh hưởng nặng nề.
Những loài cá suy giảm quần thể ở ĐBSCL được xếp vào nhóm cực kỳ nguy cấp (CR), theo Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)

Cá Tra Dầu Mekong (Pangasianodon gigas)
Phân bố: Lưu vực sông Mekong tại ĐBSCL
Sinh cảnh: Sông, suối, đất ngập nước quanh năm
Cá Hô (Catlocarpio siamensis)
Phân bố: Lưu vực trung lưu sông Đồng Nai và Mekong
Sinh cảnh: Đồng bằng ngập lũ, vực sâu của sông chính


Cá Trà Sóc (Probarbus jullieni)
Phân bố: Lưu vực sông Mekong tại ĐBSCL
Sinh cảnh: Nền đáy sông có cát, nước sâu
Cá Vồ Cờ (Pangasius sanitwongsei)
Phân bố: Lưu vực sông Mekong và Đồng Nai
Sinh cảnh: Sông lớn được bao quanh bởi rừng nhiệt đới

Mùa nước nổi - hay mùa lũ - thường bắt đầu từ tháng 7 hàng năm và kéo dài 3-4 tháng. Giai đoạn này, người dân tạm gác chuyện ruộng đồng, chuyển sang đánh bắt cá, sống nương theo con nước. Khác với lũ miền Trung hay miền Bắc - vốn chảy xiết và tàn phá mạnh - lũ miền Tây đến chậm, rút chậm, mang theo phù sa và cá tôm nuôi sống vùng đồng bằng rộng hơn 48.000 km².
“Sống ở miền Tây là mùa cạn đi bằng hai chân, mùa nước nổi đi bằng hai tay, tức là phải dùng tay chèo vỏ lãi”, ông Tuấn kể về cách người dân vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười sống chung với lũ.
Tuy nhiên, 50 năm qua, diện mạo mùa lũ ở ĐBSCL ngày càng thay đổi rõ rệt. Từ năm 2012 đến nay, vùng này không còn xuất hiện lũ lớn. Trong đó, năm 2015 ghi nhận đỉnh lũ tại trạm Tân Châu (An Giang) thấp nhất trong lịch sử quan trắc - chỉ đạt 2,51 m.
Cùng với con nước, phù sa và nguồn lợi sinh thái đặc trưng của mùa lũ cũng suy giảm mạnh, làm thay đổi cuộc sống của hơn 17,5 triệu dân vùng ĐBSCL.
Mực nước lũ lớn nhất tại trạm Tân Châu (An Giang) - đầu nguồn dòng Mekong khi vào ĐBSCL - ngày càng giảm
Nguồn: Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam
“Lũ miền Tây mất dần hai tài nguyên cốt lõi là phù sa và nguồn lợi thuỷ sản”, ông Marc Goichot, chuyên gia kỹ thuật Chương trình Nước ngọt của WWF Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nói.
Chuyên gia phân tích, lũ của ĐBSCL đang dần mất “kết nối” với dòng sông theo ba chiều hướng: dọc (thượng nguồn - hạ nguồn), ngang (sông - vùng trũng ngập lũ), và sâu (lòng sông - tầng trầm tích, nước ngầm). Nguyên nhân chính lần lượt là thuỷ điện và hồ chứa, đê bao - bờ bao, khai thác cát.

Sông Mekong dài 4.880 km, đứng thứ 12 thế giới, bắt nguồn từ vùng núi Thanh Hải (Trung Quốc) và đổ ra Biển Đông. Lưu vực sông chảy qua 6 quốc gia, trong đó đoạn qua Việt Nam - Đồng bằng sông Cửu Long - là điểm đến cuối cùng của dòng sông trước khi đổ ra biển.
Trên đường về hạ lưu, lũ từ thượng nguồn bị chặn lại bởi hệ thống thủy điện và hồ chứa - nơi giảm lũ bằng cách tích nước và làm chậm dòng chảy. Theo Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, từ năm 2010 đến nay, dung tích điều tiết của các công trình thượng lưu đã đạt 65-70 tỷ m³, khiến tần suất lũ lớn ở khu vực ĐBSCL giảm từ 4 năm/lần xuống còn 15-20 năm/lần.
Theo quy hoạch, trong tương lai, 4.350 km dọc dòng Mekong sẽ có hơn 400 đập thuỷ điện hoạt động.
Báo cáo Hiện trạng lưu vực sông Mekong của Ủy hội sông Mekong (MRC) năm 2023 cho thấy, việc phát triển thủy điện trong lưu vực góp phần làm thay đổi các điều kiện thủy văn, đặc biệt là giảm lưu lượng dòng chảy trong mùa lũ khi các hồ chứa tích nước, và tăng lưu lượng trong mùa khô để duy trì phát điện quanh năm. Sự thay đổi này tác động đáng kể đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học toàn lưu vực.
Theo tính toán của Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, giai đoạn 2040-2050, khi hệ thống hồ chứa trên lưu vực sông Mekong hoàn thành theo quy hoạch, với tổng dung tích điều tiết khoảng 110 tỷ m3, thì tần suất lũ lớn giảm còn 25-50 năm/lần, số năm lũ vừa, nhỏ hoặc mất lũ chiếm đa số.
“Điều này đặc biệt đáng lo ngại, bởi tốc độ dòng chảy trong mùa lũ vừa và lớn là nguồn vận chuyển lượng lớn phù sa cho đồng bằng”, ông Nguyễn Phú Quỳnh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, nói.
Tổng lượng phù sa về ĐBSCL hiện chỉ còn 35-50 triệu tấn mỗi năm (đo tại trạm Kratie, Campuchia), giảm 60-70% so với trước năm 2000.

Phù sa là hỗn hợp gồm cát, bùn, sét và mảnh vụn hữu cơ, được sông ngòi vận chuyển và lắng đọng tại lòng sông, bãi bồi và đồng bằng. Quãng đường đi của phù sa phụ thuộc vào tốc độ dòng chảy.
Khi dòng chảy mạnh, nước có đủ năng lượng để cuốn phù sa, làm tăng khối lượng vật chất được vận chuyển. Ngược lại, khi dòng chảy yếu, ví dụ qua đập thuỷ điện, những hạt thô nặng như cát, sỏi lắng xuống, một phần hạt lơ lửng cũng bị giữ lại ở thượng nguồn.
Đập thủy điện biến sông thành hệ sinh thái hồ chứa, gây ra sự suy giảm đáng kể về đa dạng sinh học sông ngòi. Chúng ngăn sự di chuyển tự nhiên của các loài thủy sinh giữa thượng nguồn và hạ nguồn, đặc biệt là cá di cư.
Sau khi đi qua hệ thống đập và hồ chứa thượng nguồn, nước lũ chảy vào ĐBSCL qua hai nhánh chính là sông Tiền, sông Hậu và các vùng trữ lũ tự nhiên như Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười - những khu trũng trong lưu vực, nơi nước lũ lan tỏa, tích lại và rút đi theo chu kỳ tự nhiên.
Tại đây, hệ thống đê bao, bờ bao được xây dựng nhằm giảm thiểu thiệt hại trong mùa lũ, bảo vệ đất canh tác, tạo điều kiện để người dân ổn định cuộc sống và phát triển các mô hình nông nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản. Trong đó, các vựa lúa như Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ chiếm đa số chiều dài đê bao toàn vùng.
Đê bao được phân thành đê lửng - bảo vệ vụ lúa Hè Thu vào tháng 8 và đê triệt để - ngăn hoàn toàn lũ để bảo vệ lúa vụ ba. Dù giúp nông dân chủ động hơn với thời vụ, hệ thống này vẫn có mặt hạn chế khi chi phối quá trình vận chuyển và bồi lắng phù sa, đặc biệt tại các vùng trũng ngập lũ.
Hệ thống đê bao phân bố dòng chảy lũ. Trong đó, dòng chảy mang theo cát và sỏi bồi đắp bờ sông; còn cát nhỏ, phù sa và bùn mịn nhẹ hơn đổ ra biển. Một phần trong số này sẽ lắng xuống ở cửa sông giúp mở rộng lãnh thổ. Tuy nhiên, bên trong đồng bằng, tài nguyên của lũ tiếp tục bị thất thoát vì khai thác cát trái phép.
Việc khai thác cát hút vật liệu từ đáy sông, tạo ra các hố lớn, trở thành “bẫy trầm tích”. Tốc độ vận chuyển phù sa của dòng chảy không đủ để bù đắp phần vật liệu thất thoát, hình thành trạng thái “nước đói” - nguyên nhân kích hoạt các quá trình xói mòn lòng, bờ và bãi sông.
Theo chuyên gia, các giải pháp quản lý nước cần được thiết kế đồng thời ở hai quy mô - nội vùng và xuyên quốc gia.
Đối với kết nối theo chiều dọc (thượng lưu - hạ lưu), ông phân tích Mekong là hệ thống xuyên quốc gia, vì vậy, cần có sự hợp tác khu vực giữa các nước thượng và hạ nguồn. Việc xây đập hoặc khai thác cát ở thượng nguồn thiếu điều phối chung có thể gây hệ lụy cho khu vực hạ lưu.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Phú Quỳnh, Phó viện trưởng Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, cho rằng để tăng cường hợp tác, cần có cơ chế chia sẻ thông tin, đặc biệt về thuỷ văn và vận hành hồ chứa thượng nguồn giữa các quốc gia trong lưu vực, nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc quản lý bền vững tài nguyên nước.
Song song đó, ông Marc Goichot nhấn mạnh các giải pháp trong phạm vi quốc gia cần được ưu tiên, vì dễ triển khai và thuộc thẩm quyền của chính quyền trong nước. Trong đó, việc giảm khai thác cát được xem là bước đi cấp thiết nhằm khôi phục cân bằng trầm tích và giảm thiểu sạt lở.
Về giải pháp công trình, đại diện Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam cho rằng cần chủ động quản lý nguồn nước cho các vùng sản xuất dựa trên điều kiện sinh thái tự nhiên, với ba nhóm chính: thủy sản mặn - lợ ven biển, cây ăn trái và lúa gạo. Riêng vùng ngập lũ, với xu thế lũ suy giảm, cần xây dựng các mô hình sản xuất đa dạng, thích ứng và linh hoạt với thị trường.
PGS.TS Lê Anh Tuấn, Đại học Cần Thơ, đề xuất xem xét lại mô hình sản xuất tại các vùng đê bao khép kín trong bối cảnh lũ và phù sa giảm, đất dễ bạc màu, sâu bệnh tăng và nông dân phải phụ thuộc nhiều hơn vào thuốc trừ sâu.
“Các giải pháp thích nghi cần được phát triển dựa trên tư duy coi trọng mọi dạng nước, vì đây là tài nguyên cốt lõi quyết định sự phát triển bền vững của Đồng bằng sông Cửu Long”, ông nói.
Nội dung: Phùng Tiên
Đồ họa: Tâm Thảo - Minh Thu - Khánh Hoàng - Thanh Hạ
Bài 2: Thập kỷ 'lũ nghèo' miền Tây
Tài liệu tham khảo: