Ung thư phổi là bệnh lý ác tính hình thành do sự biến đổi bất thường của các tế bào biểu mô phế nang, phế quản. Theo Globocan 2020, đây là bệnh ác tính có tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong cao nhất trên toàn thế giới và cao thứ hai tại Việt Nam, sau ung thư gan.
ThS.BS. Vũ Hà Thanh, Phó trưởng khoa Nội 2, Bệnh viện K, cho biết ung thư phổi được chia thành hai loại chính là ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm 15% và ung thư phổi không tế bào nhỏ chiếm 85%. Giai đoạn bệnh là yếu tố chính để tiên lượng và định hướng điều trị. Điều trị ung thư phổi nhìn chung là sự phối hợp đa mô thức: phẫu thuật, xạ trị và điều trị toàn thân.
Tỷ lệ sống 5 năm phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn bệnh. Thực tế, theo thống kê của Bệnh viện K, khoảng 80% bệnh nhân ung thư phổi nhập viện ở giai đoạn đã có triệu chứng nặng và không còn khả năng điều trị triệt để bằng phẫu thuật. Nay, liệu pháp miễn dịch ra đời đã mở ra hy vọng cho bệnh nhân ung thư phổi.
Bác sĩ Thanh cho biết hệ thống miễn dịch đóng vai trò quan trọng trong cơ thể con người nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai như virus, vi sinh vật và cả trong bệnh lý ung thư. Kích thích hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể (Immunotherapy) chống lại tế bào ung thư được xem như một liệu pháp trị liệu mới bên cạnh phẫu thuật, hóa trị, xạ trị.
Các liệu pháp miễn dịch được ứng dụng trong điều trị ung thư như: liệu pháp kháng thể đơn dòng, liệu pháp ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, liệu pháp miễn dịch không đặc hiệu, liệu pháp tế bào T, vaccine điều trị ung thư. Tại Việt Nam, hiện đã có ba thuốc miễn dịch đã được Bộ Y tế cấp phép lưu hành là pembrolizumab, atezolizumab và durvalumab.

Các bác sĩ Bệnh viện K phẫu thuật một ca ung thư phổi. Ảnh: Hà Trần
Theo các nghiên cứu, liệu pháp này giúp kéo dài thời gian bệnh không tiến triển cho hầu hết giai đoạn bệnh. Giai đoạn sớm II-IIIA, miễn dịch sau phẫu thuật giúp giảm thêm 12% tỷ lệ tiến triển bệnh tại thời điểm 3 năm cho các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ. Giai đoạn IIIB, củng cố miễn dịch sau hóa xạ trị giúp giảm 16% tỷ lệ tái phát và giảm 13% nguy cơ tử vong tại thời điểm 4 năm.
Giai đoạn IV, điều trị miễn dịch có hoặc không kết hợp với tác nhân khác (hóa trị, kháng thể đơn dòng) có thể làm giảm 10 - 16% tỷ lệ tử vong tại thời điểm 3 năm, 8% tại thời điểm 5 năm; giúp tăng thời gian còn toàn bộ lên 17 tháng đến gần 28 tháng tùy từng nghiên cứu và tùy theo mức độ bộc lộ miễn dịch.
Bác sĩ Thanh đánh giá liệu pháp miễn dịch ra đời đã giúp kéo dài thêm hy vọng cho bệnh nhân bệnh nhân ung thư nói chung và ung thư phổi nói riêng. Tuy nhiên giá thành của các thuốc này khá cao và chưa được quỹ BHYT chi trả, không phải bệnh nhân nào cũng có thể tiếp cận.
Bộ Y tế vừa qua đã phê duyệt một số chương trình hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện K, trong đó có thuốc miễn dịch pembrolizumab, atezolizumab và durvalumab. Chính sách này đã giúp nhiều cho các bệnh nhân không may mắc phải căn bệnh ung thư phổi hiểm nghèo, giúp họ giảm gánh nặng bệnh tật và cả gánh nặng kinh tế.
Lê Nga