Suốt 30 ngày, gia đình không liên lạc được với em. Hóa ra, sau khi hợp đồng thực tập sinh kết thúc, em bỏ trốn, trở thành đối tượng cư trú bất hợp pháp, làm việc cho một công trường xây dựng - nơi sử dụng lao động không giấy tờ, và trả lương cao hơn hẳn vị trí thực tập sinh.
Trong một chuyến ra ngoài, em bị cảnh sát bắt tại một ga tàu ở Tokyo. Những người đồng cảnh ngộ đi cùng em "hồn xiêu phách lạc", mạnh ai nấy chạy tìm lối thoát thân. Khó khăn lắm tôi mới liên lạc được với một trong số họ, nhưng chỉ nhận được vỏn vẹn thông tin về tên của ga tàu nơi em bị bắt. Tôi phải nhờ cậy các mối quen biết của mình trong giới kinh doanh logistics và một số luật sư Nhật Bản mới có thể tìm được em.
Tôi không trách những người đi cùng em. Họ đề phòng tất cả vì sợ để lộ nhiều thông tin hơn sẽ không an toàn của cả chuỗi cư trú không giấy tờ.
Em họ tôi là một thành viên của cộng đồng lao động lớn, đang nằm trong vùng xám pháp lý ở Nhật. Bởi nhóm này cư trú bất hợp pháp, nên không có con số thống kê chính thức. Nhưng ta có thể nhìn thấy phần nào qua những con số được công bố.
Theo báo cáo của Cục Quản lý xuất nhập cảnh và Lưu trú Nhật Bản (Immigration Services Agency of Japan - ISA) năm 2023, trong số 18.198 người nước ngoài bị trục xuất trong năm 2023 vì vi phạm Điều luật Kiểm soát Nhập cư, số lao động bất hợp pháp là 12.384 người (68%). Số người Việt Nam bị trục xuất là 6.953, tương đương 38,2% trên tổng số và cũng là quốc gia chiếm tỷ lệ cao nhất.
Đây chỉ là các trường hợp vi phạm bị phát hiện và trục xuất, nếu tính cả nhóm vẫn còn trong vùng xám, con số sẽ lớn hơn rất nhiều.
Trong một báo cáo khác, ISA cho biết tính đến cuối tháng 6/2025, số lượng người nước ngoài lưu trú quá hạn thị thực bất hợp pháp tại Nhật Bản đạt 71.229 người. Tính theo quốc tịch và khu vực, Việt Nam có số lượng lớn nhất, khoảng 13.000 người, tiếp theo là Thái Lan và Hàn Quốc.
Điều gây thắc mắc là: Tại sao nước Nhật lại để hàng chục nghìn người lao động nước ngoài sống bất hợp pháp mà không quyết tâm truy quét? Tại sao vấn đề này mới trở thành chương trình nghị sự chính trị 2024-2025, trong khi đã tồn tại nhiều năm?
Câu trả lời nằm ở sự thỏa hiệp ngầm ba bên.
Bên thứ nhất là người lao động. Chẳng hạn người Việt, họ vay nợ hàng trăm triệu đồng để xuất ngoại, không thể dễ dàng về nước khi chưa hoàn vốn. "Bỏ trốn" là để sinh tồn. Thu nhập bất hợp pháp có thể gấp đôi, gấp ba, không bị ràng buộc chế độ quản lý với các cơ quan đại diện, tổ chức phái cử lao động ở Việt Nam. Họ chấp nhận sống trong sợ hãi, không quyền lợi - chỉ cần có việc và có tiền.
Bên thứ hai là người sử dụng lao động Nhật: Ngành 3D (dirty, demeaning, dangerous - bẩn, khổ, nguy hiểm) cần lao động rẻ, linh hoạt, không đòi quyền lợi. Lao động "bỏ trốn" là đối tượng hoàn hảo: chăm chỉ, không phàn nàn, không bảo hiểm, sa thải dễ. Nguồn lao động kinh tế Nhật cần họ nhưng không thể thừa nhận.
Cuối cùng là chính quyền địa phương ở Nhật. Họ biết nhưng không truy đuổi đến cùng, vì đây là một phần của nền kinh tế. Xã hội Nhật Bản cần nguồn nhân lực này, khi người bản địa không muốn đảm nhận loại việc 3D.
Sự thỏa hiệp ba bên này khiến tất cả cùng có lợi, trừ khi chuyện xấu xảy ra. Và khi chuyện xấu xảy ra với người đang ngoài hệ thống, không ai biết họ ở đâu, không ai liên lạc được, không ai bảo vệ được.
Với hàng chục nghìn lao động sống trong tình trạng bơ vơ pháp lý, đây không còn chuyện nhỏ có thể xử lý lẻ tẻ. Đây là vấn đề hệ thống đòi hỏi giải pháp hệ thống.
Ngày 21/10, bà Sanae Takaichi vừa trở thành Thủ tướng Nhật Bản. Trong chiến dịch bầu lãnh đạo LDP trước đó, bà cùng nhiều ứng viên khác đã đưa vấn đề người nước ngoài vào chương trình nghị sự. Cựu Tổng Thư ký LDP Toshimitsu Motegi từng tuyên bố mục tiêu "zero illegal foreigners" - không khoan nhượng với người nước ngoài cư trú bất hợp pháp.
Nếu chính sách này được thực thi, làm sao bảo vệ người Việt đang cư trú bất hợp pháp ở Nhật? Không thể làm ngơ - như thế là bỏ rơi người lao động. Không thể dễ dàng kêu gọi họ ra trình diện, sống và làm việc một cách hợp pháp.
Việt Nam cần cách tiếp cận mới, trước mắt là tìm kiếm và hồi hương những công dân đã ở trong vùng xám thông qua hệ thống hỗ trợ không phụ thuộc tư cách pháp lý, như đường dây nóng không hỏi giấy tờ, hay các ứng dụng cho phép ẩn danh. Quy trình này cần đi kèm với các giải pháp đào tạo nghề, tư vấn và cung cấp cơ hội việc làm ở địa phương, để người xuất ngoại nhìn thấy cửa sống khi trở về.
Quan trọng và lâu dài hơn là đàm phán với Nhật về việc cải thiện chế độ lao động với người Việt Nam trên cơ sở nhu cầu thực tế giữa hai bên, mở rộng vùng hợp pháp thay vì để vùng xám ngày càng phình to ra.
Chính sách "zero illegal foreigners" dù có thể sẽ được triển khai mềm mỏng - vì nhu cầu về lao động của nền kinh tế Nhật Bản - sự xuất hiện của nó trong chương trình nghị sự chính trị là tín hiệu cho thấy: thỏa hiệp ngầm không bền vững, và nhóm dễ tổn thương là những người Việt sống bơ vơ pháp lý, không được pháp luật bảo vệ - cho đến khi có chuyện xảy ra.
Nguyễn Thanh Cảnh