Ông Lương Văn Lý.
- Thu hút vốn FDI của TP HCM chững lại xuất phát từ nguyên nhân nào thưa ông?- Từ đầu năm đến nay nhìn chung TP HCM không có dự án FDI nào lớn, mức vốn đăng ký mỗi dự án chỉ 1-5 triệu USD. Sở dĩ có tình hình này vì đất đai của thành phố đang khan, mà không có đất thì khó lòng thu hút được những dự án sản xuất công nghiệp lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài dường như cũng cảm nhận được những hạn chế khách quan của thành phố nên đã có sự lựa chọn khác.
- Chuyện đất đai có quá quan trọng nếu thành phố đang đặt trọng tâm mời gọi các dự án FDI vào lĩnh vực dịch vụ và công nghệ cao?
- Định hướng là thế, nhưng nếu có dự án lớn thuộc ngành công nghiệp chế biến truyền thống thì thành phố vẫn không từ chối. Mặt khác, đã hướng FDI về mảng dịch vụ và công nghệ cao thì không nên nhìn vào con số kết quả của các tỉnh thành khác để đi đến kết luận rằng FDI của thành phố đang tăng trưởng hay suy thoái.
- Ông nhận xét gì về chất lượng của các dự án dịch vụ và công nghệ cao của thành phố khi chưa thấy các tên tuổi lớn của thế giới trong danh sách đầu tư?
- Nhìn chung VN chưa thu hút được các công ty công nghệ cao nổi tiếng vì trong thế giới công nghệ cao, VN chỉ là cái tên mới chưa ai biết đến, chưa được tin cậy về khả năng cung cấp các loại dịch vụ hỗ trợ, đặc biệt là nguồn nhân lực. Hạ tầng kỹ thuật cho công nghệ cao chưa hoàn chỉnh, trong khi điều kiện cần thiết cho các nhà sản xuất truyền thống không còn. Giai đoạn chuyển tiếp thật sự là giai đoạn khó khăn. Tôi tin rằng các thành phố lớn trong những năm tới khi bước vào giai đoạn này đều gặp phải những lấn cấn tương tự.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 8 tháng qua, cả nước thu hút được 3,4 tỷ USD vốn FDI, tăng 49% so với cùng kỳ năm ngoái. Thu hút được 343 triệu USD, TP HCM xếp thứ tư sau Hà Nội (dẫn đầu với 1,13 tỷ USD), Đồng Nai (671 triệu USD) và Bình Dương (439 triệu USD).
- Theo ông, khi nào dòng vốn FDI của TP HCM sẽ khởi sắc trở lại?- Điều này phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Quan trọng nhất là chúng ta phải cải thiện chất lượng đào tạo vì với ngành dịch vụ và công nghệ cao, nguồn nhân lực quyết định số phận dự án. Ngoài ra, có những “dây trói” mà bản thân thành phố cũng chưa mở được. Tôi muốn nói các quy định hiện nay không khuyến khích doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tham gia các ngành dịch vụ như thương mại, vận tải biển, hậu cần, kho bãi, quảng cáo, kinh doanh nhà hàng... trong khi đây là lĩnh vực thành phố thật sự có thế mạnh. Bao nhiêu thứ hạn chế như thế thì rất khó cho thành phố để có thể khơi mạnh dòng vốn FDI.
- Thời gian gần đây TP HCM không đặt ra chỉ tiêu thu hút FDI cụ thể có phải vì ngại không thể thực hiện được?
- Từ trước đến nay, việc đặt ra kế hoạch thu hút FDI chỉ dựa trên ý muốn chủ quan của chúng ta chứ chưa đặt nền tảng trên những đánh giá chính xác và khoa học khả năng của nhà đầu tư, động cơ để họ đưa vốn vào cũng như các biến động bên ngoài biên giới.
Những năm trước, trong khi dòng vốn FDI lưu chuyển trên thế giới giảm mạnh, ta vẫn cứ “năm sau cao hơn năm trước”. Tôi cho rằng ngày nào chúng ta chưa thể nắm bắt hết các yếu tố tác động đến FDI thì chưa nên đề ra chỉ tiêu cụ thể.
- Có ý kiến cho rằng VN nói chung và TP HCM nói riêng đã mở cửa đón nhận FDI hơn 15 năm qua, cũng đã đến lúc phải đánh giá lại toàn bộ tiến trình này, chọn lọc trong việc tiếp nhận các dự án mới để phục vụ tốt hơn cho mục tiêu phát triển kinh tế, ông có nghĩ sao?
- Hiện nay yếu tố duy nhất khiến thành phố phải cân nhắc để loại bỏ dự án là yếu tố gây ô nhiễm môi trường. Còn lại không bác dự án nào cả nếu điều kiện khách quan cho phép nhận.
(Theo Tuổi Trẻ)