Các doanh nghiệp Việt kiều đang trao đổi cơ hội đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. |
Ông Nguyễn Chơn Trung, Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài tại TP HCM, cho biết quá trình cấp giấy phép cho một dự án đầu tư của Việt kiều tại thành phố hiện nay trung bình từ 6 tháng đến 1 năm và lâu hơn nữa. Có rất ít dự án được cấp phép nhanh trong vòng 1-2 tháng. Theo ông Trung, sự kéo dài trong việc cấp phép này dễ khiến cho Việt kiều nản lòng, làm ảnh hưởng đến nhiệt tình đầu tư về nước của người Việt Nam ở nước ngoài.
Hiện nay có khoảng 2.000 doanh nghiệp là Việt kiều về đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 1.207 dự án đầu tư theo Luật đầu tư trong nước và 87 dự án hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, theo ước tính của Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài, có khoảng 3 triệu Việt kiều trên khắp thế giới và chừng 50.000 người trong số này có ý định đầu tư về Việt Nam.
Thế nhưng, theo nhiều doanh nghiệp Việt kiều, những nhiêu khê, rắc rối trong thủ tục xin phép đầu tư cũng như cơ chế quản lý kinh doanh của nền kinh tế bán thị trường đã phần nào làm chùn bước các nhà đầu tư Việt kiều. Trong cuộc họp của Hiệp hội doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài tại TP HCM (OVIBA) cách đây 1 ngày, các doanh nghiệp Việt kiều cho rằng hiện họ gặp nhiều khó khăn khách quan và cả chủ quan khi đầu tư về nước.
Ông Phan Thành, Chủ tịch Hội đồng quản trị OVIBA, nhận xét: "Khi chính sách Nhà nước không nhất quán, dễ thay đổi thì doanh nghiệp thường trở tay không kịp trong đường hướng kinh doanh của mình. Nhiều người sinh ra chờ thời chứ không mạnh dạn đầu tư". Cũng theo ông Thành, một nguyên nhân khách quan khác là cơ chế quản lý Nhà nước chưa phù hợp với tư duy kinh doanh của doanh nghiệp Việt kiều. "Nếu thực hiện cơ chế 1 cửa cho kiều bào đầu tư về nước để tạo sự thông thoáng hơn thì sức thu hút nguồn vốn Việt kiều sẽ lớn hơn hiện nay", ông Thành nói.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Chơn Trung còn phân tích thêm, sự khó khăn trong đầu tư của các doanh nghiệp Việt kiều còn ở chính bản thân của doanh nghiệp khi họ tỏ ra thiếu kiên trì, đeo đuổi mục đích đầu tư; thiếu tư vấn và thông tin về đầu tư tại Việt Nam nên có những trường hợp sơ suất trong kinh doanh gây nên những rủi ro đáng tiếc. "Đặc biệt nhiều nhà đầu tư Việt kiều có biểu hiện thiếu bản lĩnh đối với cơ chế kinh doanh nửa thị trường và còn bao cấp nên gặp thất bại, mặc dù nhiều người rất thành công khi kinh doanh ở các nước khác trên thế giới", ông Trung nhận xét.
Theo số liệu của Sở Kế hoạch Đầu tư TP HCM, đến hết năm 2004, tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt kiều theo Luật đầu tư trong nước đạt khoảng 4.152 tỷ đồng; gần 1,6 triệu USD được Việt kiều đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài. Lĩnh vực đầu tư nhiều nhất là thương mại (37%) và dịch vụ (33%). Ông Nguyễn Chơn Trung cho rằng: "So với tiềm năng về nguồn vốn của kiều bào thì tổng vốn đầu tư này còn rất khiêm tốn. Nhiều doanh nghiệp Việt kiều vẫn chưa dốc hết sức, hết vốn do họ đánh giá tình hình kinh doanh trong nước còn nhiều rủi ro".
Để hỗ trợ nhiều hơn trong công việc kinh doanh của các doanh nghiệp Việt kiều tại Việt Nam, ngoài kiến nghị đến UBND TP HCM và yêu cầu thành phố đề xuất đến Chính phủ sự cần thiết áp dụng cơ chế một cửa đối với đầu tư kiều bào về nước, OVIBA đang chuẩn bị các hoạt động dịch vụ và thông tin đầu tư cho Việt kiều.
Cụ thể, sắp tới OVIBA sẽ tổ chức Ngày thông tin 2 lần trong tháng; đồng thời thành lập Quỹ đầu tư cho Việt kiều như một bước đệm để thành lập Ngân hàng thương mại cho Việt kiều nhằm hỗ trợ nhu cầu nguồn vốn và tài chính cho các doanh nghiệp này. Theo ông Jean Paul Roca, Trưởng ban kế hoạch - đầu tư phát triển OVIBA, Ngày thông tin nhằm mục đích tư vấn, cung cấp thông tin về chính sách đầu tư, tình hình kinh tế, giải pháp kinh doanh... tại Việt Nam cho Việt kiều đã hoặc đang có nhu cầu đầu tư về nước.
Phan Anh