Không "bắt buộc" giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có câu trả lời cho đề nghị của các ngân hàng thương mại giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ nhằm tháo gỡ khó khăn khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ liên tục giảm. Về vấn đề này, ông Võ Trí Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu và Dự báo thuộc Viện Nghiên cứu, Quản lý Kinh tế TW đã khẳng định với Thời báo Ngân hàng rằng, không nên hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong thời điểm này.
- Ông có bình luận gì về việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2 lần liên tiếp nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong thời gian gần đây?
- Việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có thể coi là việc đánh thuế các ngân hàng thương mại và làm tăng chi phí huy động vốn. Đương nhiên là họ không mấy vui vẻ với biện pháp này. Tuy nhiên, xét trên bình diện vĩ mô, việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc giúp ngăn ngừa tình trạng đôla hóa tài sản tại các ngân hàng thương mại leo thang. Theo tôi, đây là một biện pháp phù hợp trong điều kiện lãi suất USD quốc tế chúng ta không kiểm soát được và tỷ giá hối đoái cũng chưa thể thả nổi.
- Nhiều ngân hàng thương mại đã kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ. Kiến nghị này có phù hợp?
- Năm 2000 xu hướng người dân chuyển các khoản tiết kiệm từ VND sang USD diễn ra rất mạnh, tình trạng đôla hóa tài sản tại các ngân hàng diễn ra khá trầm trọng bởi việc lãi suất USD xấp xỉ bằng lãi suất VND. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, trong tình hình hiện nay không nên hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc để lãi suất VND và USD có được một khoảng cách hợp lý, tránh việc người dân đổ xô đi chuyển các khoản tiết kiệm của mình sang USD.
- Đôla hóa là một trong những nguyên nhân gây ra thiểu phát. Ông có ý kiến gì về nhận định này?
- Về mặt lý thuyết khi người dân đổ xô đi chuyển các khoản tiết kiệm của mình từ VND sang USD thể hiện người dân tín nhiệm đồng USD hơn và lạm phát phải tăng chứ không giảm. Do đó, không thể nói đôla hóa là một trong những nguyên nhân của thiểu phát. Nhưng một trong 2 điều nghịch lý của thị trường tiền tệ Việt Nam trong năm qua đó là tình trạng đôla hóa diễn ra khá trầm trọng nhưng tỷ lệ lạm phát lại là con số âm.
- Vậy còn điều nghịch lý thứ hai là gì?
- Nghịch lý thứ hai cũng liên quan đến chỉ số giá cả. Lượng tiền cung ứng tăng mạnh nhưng chỉ số giá cả vẫn âm. Tất nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng những tiêu chí để tính toán chỉ số giá cả của Việt Nam cần xem xét lại.
- Hai năm qua nhiều biện pháp kích cầu đã được Chính phủ thực thi mà tại sao chỉ số giá cả vẫn không nhích lên?
- Có nhiều nguyên nhân giải thích điều này nhưng ở đây xin được đề cập đến 1 vấn đề khác. Chính sách kích cầu vừa qua theo tôi mâu thuẫn với những chiến lược trung và dài hạn về cải cách cơ cấu. Cải cách doanh nghiệp nhà nước là phải giảm bớt các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhưng thực chất chính sách kích cầu của Chính phủ lại cứu các doanh nghiệp này. Không phải ngẫu nhiên mà cùng với chính sách kích cầu, tiến trình cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp nhà nước bỗng nhiên chậm lại.
- Tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước chậm lại sẽ làm cho cải cách hệ thống ngân hàng gặp nhiều chông gai hơn?
- Đúng vậy. Ví dụ một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng là phải làm sạch bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng thương mại. Thế nhưng với việc tiếp tục rót vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả duy trì hoạt động thì việc này không thể thành công. Với một khoản tiền lớn, Chính phủ có thể làm sạch trong hiện tại nhưng chỉ vài năm sau nêus các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục làm ăn có hiệu quả thì bảng tổng kết tài sản lại tiếp tục cần được làm sạch trở lại.
(Theo Thời Báo Ngân Hàng, 17/2).