Giấc mộng của Mỹ rằng Iraq, với trữ lượng dầu mỏ lớn thứ hai thế giới, có thể tự trang trải công cuộc tái thiết đã tan biến, do khoản nợ khổng lồ và cơ sở hạ tầng khai thác dầu ọp ẹp.
Đất nước vùng Vịnh gặp nhiều khó khăn hơn Afghanistan và Nam Tư. 100 tỷ USD viện trợ mà đất nước vùng Vịnh cần bằng tổng số khoản tài chính mà 36 nước hậu xung đột đã nhận trong thập kỷ 1990. Điều chỉnh cho đúng mức lạm phát, thì con số này gần tương đương với khoản tài chính của Kế hoạch Marshall sau Thế chiến II.
Theo kịch bản kinh tế tốt đẹp, khoản thu từ xuất khẩu dầu lửa sẽ tăng, giúp Iraq trang trải một phần công cuộc tái thiết. Tuy nhiên, doanh thu khoảng 10-12 tỷ USD/năm từ dầu sẽ không đủ để chi trả những nhu cầu nhân đạo, trả nợ, kể cả là đã được xoá phần lớn.
Nam Tư đã được xoá bỏ 66% nợ sau khi Slobodan Milosevic mất quyền lực, nhưng nợ vẫn chiếm tới 150% GDP. Các nhà phân tích tính toán nếu cũng được xoá phần nợ như vậy, thì Iraq sẽ phải trả 1,6 tỷ USD/năm trong 5 năm đầu và 4,8 tỷ USD/năm trong 10 năm tiếp theo. Việc sửa chữa các cơ sở xuất khẩu dầu hiện có sẽ cần 5 tỷ USD và xây dựng lại cơ sở hạ tầng điện nước tiêu tốn 20 tỷ USD.
Châu Âu và Nhật Bản, từng cấp vốn cho việc xây dựng lại Nam Tư (cũ) và Afghanistan, đang bị hạn chế về ngân sách. Một số nước châu Âu sẽ không chi cho cuộc chiến mà họ không nhất trí và quốc gia hậu chiến thiếu vắng vai trò của Liên Hợp Quốc. Đức tuyên bố nước gây tổn thất cho Iraq phải chi trả. Còn Hy Lạp, nước chủ tịch luân phiên Liên minh châu Âu, cảnh báo khó khăn mới sẽ lộ diện khi chiến tranh kết thúc. Thủ tướng Hy Lạp Costas Simitis nói: "Việc những nước đi tấn công lại nắm quyền quản lý Iraq trong thời hậu chiến sẽ châm ngòi cho những cuộc xung đột và khủng hoảng mới".
Chỉ còn một nguồn tài chính là Mỹ. Tuy nhiên, Washington cũng có thể gây ra cuộc tranh cãi với Nga và những nước làm chủ 8 tỷ USD nợ, nếu ủng hộ lời kêu gọi của người Iraq sống lưu vong về việc xoá bỏ tất cả những giao ước thời Saddam. Các nhà kinh tế cho biết Washington đã cam kết tài trợ chi phí, ước khoảng 100 tỷ USD. Mỹ đang xem xét chi 2,5 tỷ USD viện trợ và tái thiết. Bộ Tài chính Mỹ sẽ phát hành trái phiếu để không làm tăng khoản nợ chính phủ.
Các quan chức không bình luận vấn đề tài trợ tái thiết Iraq, mà chỉ cho biết thảo luận đang diễn ra. Tuy nhiên, nếu Mỹ điều hành Iraq hậu chiến, thì hình thức giống kiểu các nước tài trợ cho Nam Tư và Afghanistan sẽ thu hút được rất ít tiền.
Trước khi phát động chiến tranh, Washington lo ngại Tổng thống Saddam Hussein sẽ phá huỷ cơ sở hạ tầng khai thác dầu của Iraq, do đó ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu và chi trả công cuộc tái thiết đất nước sau này. Dự đoán đó chưa xảy ra, nhưng sẽ có rất nhiều khó khăn không ngờ tới đối với đất nước một thời là quốc gia đang phát triển giàu có nhất. Thu nhập bình quân theo đầu người giảm từ 4.000 USD/năm xuống còn 150 USD/năm.
Ngay từ trước khi Mỹ khai hỏa chiến dịch quân sự hôm 20/3, Iraq đã cần nhiều tỷ USD để chống đỡ các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ 26 triệu dân, 60% trong số đó phụ thuộc vào viện trợ lương thực, và khu vực sản xuất dầu đã bị tàn phá bởi lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc suốt 12 năm nay và quản lý kinh tế yếu kém.
Mỹ cho rằng Iraq có thể sử dụng 11-14 tỷ USD từ doanh thu dầu mỏ mỗi năm để tái thiết. Tuy nhiên, những nỗ lực này có thể bị đặt lên cán cân luật pháp, vì Iraq còn phải trả 142 tỷ USD nợ, 300 tỷ USD bồi thường thiệt hại cho Kuwait vì xâm chiếm năm 1991, cộng với 57 tỷ USD theo những hợp đồng mà chính phủ Iraq đã ký kết.
Các nguồn vốn tiềm năng khác là từ chính phủ các nước vùng Vịnh, các công ty và ngân hàng sẵn sàng chia sẻ hoàn cảnh khó khăn của Iraq, các công ty đa quốc gia và nguồn tiết kiệm trong nước.
Các ngân hàng vùng Vịnh cho rằng chính các chính phủ Ảrập, trong đó một số cho Saddam vay nhiều tỷ USD, phải đóng góp tiền vì lý do chiến lược và chính trị. Một ngân hàng có trụ sở tại Bahrain nói: "Họ cảm thấy có lỗi vì những gì đang xảy ra với người Iraq, cộng với thực tế là một đất nước Iraq ổn định rất quan trọng".
Muốn khu vực tư nhân cung cấp vốn, thì ít nhất phải có một chính phủ ổn định (chứ không phải chính quyền lâm thời do Mỹ điều hành), hoà bình, các quy định rõ ràng, cũng như một loại hình đảm bảo chính phủ (có thể từ Bộ Tài chính Mỹ). Các nhà đầu tư tư nhân có kinh nghiệm, nhưng không còn mặn mà với những dự án tại các nước đang phát triển sau vụ Enron ở Ấn Độ và việc Argentina tạm thời thu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài sau khi nước này vỡ nợ.
Giáo sư Fitzgerald, nhà kinh tế phát triển và chuyên gia về tái thiết của ĐH Oxford, nói: "Cách duy nhất thu hút khối tư nhân là ký hợp đồng bảo hiểm cho những nguy cơ, rồi thu hút tiền từ thị trường Mỹ vào việc đó".
Những khó khăn của kinh tế thế giới cũng có thể ngăn cản các công ty liều lĩnh với số vốn của mình, trong khi đang gặp quá nhiều vấn đề ở các thị trường, như giá thấp, cổ phiếu giảm giá.
Thông thường trong tình hình hậu xung đột, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thường yêu cầu tỷ lệ lãi suất cao để ổn định đồng nội tệ, nhưng người dân sở tại không muốn. "Nhà đầu tư trong nước, nông dân, chủ cửa hiệu... sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi IMF gây ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và tỷ giá", Fitzgerald nói.
Nguyễn Hạnh (theo Reuters)